Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "QTBV Member" các nội dung bạn quan tâm.

Các "điểm nghẽn", “nỗi đau” của Ban Giám đốc Bệnh viện công tại Việt Nam phải vượt qua

DrVDT

Báo cáo Phân tích: Các “nỗi đau” của Ban Giám đốc Bệnh viện Công tại Việt Nam

Trong bối cảnh hệ thống y tế công lập Việt Nam đang chịu nhiều sức ép, ban giám đốc các bệnh viện công đang phải đối mặt với hàng loạt “nỗi đau” (pain points) trong quản lý và vận hành. Báo cáo này tổng hợp và phân loại các thách thức đó theo nhóm vấn đề chính, phân tích nguyên nhân sâu xa của từng vấn đề một cách khoa học, khách quan. Các dữ liệu và ví dụ thực tế được trích dẫn từ nguồn uy tín (Bộ Y tế, bệnh viện lớn, báo cáo World Bank, WHO, …) nhằm phản ánh sát thực trạng. Các “nỗi đau” được sắp xếp theo mức độ ảnh hưởng, ưu tiên từ cao đến thấp.

Thách thức về Tài chính (Financial Challenges)

1. Nguồn tài chính không bền vững, thu không đủ bù chi: Nhiều bệnh viện công rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách do nguồn thu sự nghiệp không đủ bù đắp chi phí hoạt động [thanhnien.vn]. Chi thường xuyên của bệnh viện ngày càng lớn trong khi ngân sách nhà nước cấp có hạn và nguồn thu dịch vụ hạn chế. Đơn cử, hai bệnh viện tuyến cuối hàng đầu (Bạch Mai, Bệnh viện K) sau 2 năm thí điểm tự chủ tài chính toàn diện đã bị thua lỗ và phải xin dừng thí điểm [thanhnien.vn]. Nguyên nhân gốc rễ là bệnh viện phải “tự bơi” lo mọi chi phí trong khi nguồn thu không tăng tương xứng, dẫn tới “khủng hoảng nguồn thu” [thanhnien.vn]. Đặc biệt sau đại dịch COVID-19, lượng bệnh nhân giảm và giãn cách xã hội khiến thu nhập của nhiều bệnh viện sụt giảm mạnh, có nơi chậm trả lương nhân viên [baochinhphu.vn]. Tình trạng thu không đủ chi này đang đe dọa tính bền vững tài chính của toàn hệ thống bệnh viện công. Nhiều đơn vị chỉ cân đối được chi phí ở mức cầm chừng, không có tích lũy để tái đầu tư phát triển [tuoitre.vn].

2. Cơ chế giá dịch vụ y tế chưa hợp lý (viện phí “chưa tính đúng, tính đủ”): Hiện nay giá khám chữa bệnh được Bộ Y tế quy định mới tính 4/7 yếu tố cấu thành chi phí, chưa bao gồm đầy đủ chi phí khấu hao, quản lý, đào tạo... [thanhnien.vn]. Do đó, giá viện phí bảo hiểm y tế quá thấp so với chi phí thực tế, khiến bệnh viện càng làm nhiều dịch vụ bảo hiểm càng lỗ. Ví dụ, tại Bệnh viện Chợ Rẫy, một ca phẫu thuật nội soi cột sống cổ phức tạp giá BHYT chỉ hơn 3 triệu đồng, trong khi bệnh viện tư thu 40 triệu (gấp ~11 lần) [tuoitre.vn]. Tiền công khám bệnh ở Chợ Rẫy chỉ 42.000 đồng/lượt, so với ~200.000 đồng ở bệnh viện tư (gấp ~4,7 lần) [tuoitre.vn]. Giá dịch vụ thấp khiến nguồn thu bệnh viện công eo hẹp, không đủ tái đầu tư nâng cao chất lượng [tuoitre.vn]. Trong khi đó chi phí đầu vào (thuốc, vật tư, lương…) tăng hàng năm theo lạm phát nhưng giá viện phí điều chỉnh rất chậm, gây mất cân đối thu – chi [thanhnien.vn]. Việc chậm ban hành giá dịch vụ theo yêu cầu cũng kìm hãm bệnh viện công huy động nguồn thu ngoài ngân sách – Bạch Mai cho biết Bộ Y tế đã 4-5 năm chưa ban hành khung giá trần dịch vụ theo yêu cầu, khiến bệnh viện không thể triển khai dịch vụ chất lượng cao để tăng thu [thanhnien.vn]. Tóm lại, cơ chế định giá chưa sát thực tế là “nút thắt” tài chính lớn nhất của bệnh viện công [tuoitre.vn].

3. Chậm thanh toán và giới hạn dự toán Bảo hiểm Y tế (BHYT) gây thiếu hụt dòng tiền: Nhiều bệnh viện rơi vào cảnh “bị treo” khoản tiền BHYT vượt dự toán chưa được thanh toán hàng ngàn tỷ đồng, làm căng thẳng dòng tiền hoạt động [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Chỉ riêng tại TP.HCM, trong hai năm 2023-2024, BHXH chưa thanh toán khoảng 2.500 tỷ đồng chi phí khám chữa bệnh BHYT vượt dự toán cho các bệnh viện [tuoitre.vn]. Việc dự toán chi BHYT do nhà nước giao thấp hơn nhu cầu thực tế khiến nhiều bệnh viện cung cấp dịch vụ cho bệnh nhân BHYT nhưng không được trả đủ tiền kịp thời [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Dòng tiền bị chậm trễ làm bệnh viện thiếu kinh phí mua thuốc, vật tư, phải nợ nhà cung cấp kéo dài [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Lãnh đạo Bệnh viện Chợ Rẫy cho biết bệnh viện đang bị treo hàng trăm tỷ đồng BHYT chưa được quyết toán, ảnh hưởng trực tiếp đến việc trả lương nhân viên và mua sắm thuốc, vật tư [tuoitre.vn]. Nhiều đơn vị phải “gồng gánh” xoay sở để trả lương, còn tiền thuốc thì “khất nợ” nhà cung cấp, cố gắng tránh để bệnh nhân thiếu thuốc [tuoitre.vn]. Nếu tình trạng này kéo dài, bệnh viện không có tiền trả nợ, nguy cơ công ty dược ngừng cung ứng, đe dọa chất lượng điều trị [tuoitre.vn]. Rõ ràng, cơ chế dự toán chi BHYT cứng nhắc đang khiến bệnh viện công lâm vào cảnh thiếu hụt tài chính trầm trọng, nhất là những bệnh viện lớn có chi phí phục vụ rất cao [tuoitre.vn] [tuoitre.vn].

4. Khó khăn trong thực hiện tự chủ tài chính và đầu tư công: Chính sách trao quyền tự chủ tài chính cho bệnh viện công được kỳ vọng giúp linh hoạt nguồn lực, nhưng thực tế triển khai gặp nhiều vướng mắc. Nhiều bệnh viện tự chủ toàn diện bị cắt hẳn ngân sách nhà nước nhưng lại không được giao đủ quyền để tự chủ [thanhnien.vn]. Lãnh đạo Bệnh viện Bạch Mai chua xót rằng bệnh viện “tự chủ trên danh nghĩa” vì không được tự quyết về tổ chức nhân sự, không được định giá dịch vụ phù hợp, cũng không được cấp vốn đầu tư ban đầu [thanhnien.vn]. Thiếu vốn đầu tư cơ sở vật chất ban đầu khiến bệnh viện tự chủ phải vay mượn hoặc hợp tác bên ngoài với chi phí cao, càng thêm gánh nặng tài chính. Trong khi đó, bệnh viện vẫn phải lo chi đủ thứ: từ đào tạo, nghiên cứu khoa học đến duy tu tài sản mà trước đây do ngân sách lo [thanhnien.vn]. Bộ máy quản trị mới (Hội đồng quản lý bệnh viện) vận hành lúng túng, chồng chéo trách nhiệm, khiến việc ra quyết định chậm trễ [thanhnien.vn]. Tại các bệnh viện chỉ tự chủ một phần, ngân sách nhà nước chỉ cấp rất hạn chế (ví dụ một bệnh viện đa khoa khu vực ở TP.HCM cho biết mỗi năm chỉ được ngân sách hỗ trợ mua sắm vài trang thiết bị, còn lại phải tự lo chi thường xuyên “tàm tạm” đủ sống) [thanhnien.vn]. Do nguồn thu hạn hẹp, nhiều bệnh viện không có khả năng chi trả đủ các khoản phụ cấp, thu nhập tăng thêm cho nhân viên dù có chính sách (ở TP.HCM có nơi chỉ chi được 0,5-0,6 so với mức phụ cấp 1,2 theo nghị quyết HĐND) [thanhnien.vn]. Tự chủ tài chính “nửa vời” khiến bệnh viện công rơi vào thế khó: thu không đủ, chi không dám, nhiều nơi phải hoạt động cầm chừng, không dám đầu tư nâng cấp lớn vì sợ rủi ro thua lỗ. Các chuyên gia đánh giá việc cắt toàn bộ ngân sách quá sớm khi chưa có cơ chế hỗ trợ tương ứng là “sai lầm chết người” – buộc bệnh viện chạy theo doanh thu bằng mọi giá, dẫn đến nguy cơ lạm dụng dịch vụ và sai phạm [thanhnien.vn]. Tóm lại, bài toán tự chủ tài chính bệnh viện công hiện nay đang thất bại chủ yếu do cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, làm ban giám đốc đau đầu tìm lối ra [thanhnien.vn] [thanhnien.vn].

5. Ngân sách đầu tư công cho y tế hạn hẹp, cơ sở hạ tầng xuống cấp: Mặc dù tổng chi ngân sách cho y tế có tăng qua các năm, mức đầu tư vẫn quá thấp so với nhu cầu [trade.gov]. Việt Nam chi tiêu y tế năm 2022 khoảng 4,6% GDP (18,5 tỷ USD) [trade.gov] [trade.gov] – tỷ lệ này thấp hơn nhiều nước trong khu vực, khiến bệnh viện công thiếu nguồn lực nâng cấp cơ sở vật chất. Đa số bệnh viện công được xây dựng từ nhiều thập kỷ trước, nay đã xuống cấp và quá tải trầm trọng, đặc biệt ở các thành phố lớn [trade.gov]. Theo Bộ Y tế, hệ thống bệnh viện công lập chiếm 86% tổng số bệnh viện, đóng vai trò chủ đạo nhưng phần lớn đều lạc hậu, công suất sử dụng thường trên 100% [trade.gov]. Các bệnh viện tuyến cuối tại Hà Nội, TP.HCM **tiếp nhận đến 60% bệnh nhân cả nước, thường xuyên hoạt động ở mức 200% công suất giường bệnh [trade.gov]. Cơ sở hạ tầng và trang thiết bị thiếu thốn làm giảm hiệu quả hoạt động và chất lượng điều trị, đồng thời gây tâm lý bất mãn cho bệnh nhân (ví dụ dự án Bệnh viện Đa khoa 1.500 giường tại Bình Dương sau 10 năm vẫn “đắp chiếu”, khiến bệnh nhân địa phương phải dồn về tuyến trên) [tuoitre.vn]. Nhiều bệnh viện muốn đầu tư mở rộng, hiện đại hóa nhưng ngân sách nhà nước giao không đủ, cơ chế xã hội hóa thì phức tạp, thành ra tiến thoái lưỡng nan. Tình trạng thiếu vốn còn làm đình trệ việc bảo trì, thay mới thiết bị cũ, dẫn đến máy móc hỏng hóc, phòng ốc quá tải – hệ quả là vòng luẩn quẩn: bệnh viện công khó thu hút bệnh nhân có khả năng chi trả, lại càng thiếu doanh thu để tái đầu tư, kém cạnh tranh so với tư nhân [tuoitre.vn] [trade.gov]. Đây thực sự là “cơn đau đầu” lâu năm cho ban giám đốc các bệnh viện công khi phải cân đối một ngân sách hạn hẹp cho muôn vàn nhu cầu thiết yếu.

Thách thức về Nhân sự (Human Resource Challenges)

1. Thiếu hụt nhân lực chất lượng cao – chảy máu chất xám sang khu vực tư: Các bệnh viện công đang mất dần nhiều bác sĩ giỏi, nhân viên y tế trình độ cao về tay khu vực tư nhân và nước ngoài [tuoitre.vn]. Làn sóng “chảy máu chất xám” này diễn ra mạnh mẽ trong những năm gần đây: chưa bao giờ cơ hội cho bệnh viện tư lại tốt như hiện nay – họ sẵn sàng trả lương hậu hĩnh, môi trường làm việc hiện đại để thu hút nhân lực trình độ cao từ bệnh viện công [tuoitre.vn] [baochinhphu.vn]. Trong khi đó, bệnh viện công không có cơ chế lương thưởng linh hoạt để giữ chân người tài [baochinhphu.vn]. Theo Công đoàn Y tế Việt Nam, thu nhập tại bệnh viện tư có nơi cao gấp 3-6 lần bệnh viện công, khiến bác sĩ giỏi khó cưỡng lại lời mời gọi [baochinhphu.vn]. Hệ quả là nhiều bệnh viện công thiếu vắng các chuyên gia đầu ngành, nhân lực chuyên môn sâu và cả cán bộ quản lý có năng lực [tuoitre.vn]. Đơn cử, năm 2022 có 1.190 bác sĩ và 1.177 điều dưỡng thuộc các Sở Y tế tỉnh thành xin thôi việc, bỏ việc [baochinhphu.vn] – đa số là người có tay nghề, kinh nghiệm lâu năm, để lại “lỗ hổng” lớn về chuyên môn tại đơn vị. Thiếu nhân lực chất lượng cao làm ban giám đốc đau đầu xoay xở: một mặt phải dàn trải bác sĩ hiện có để phục vụ lượng bệnh nhân lớn, mặt khác mất nhiều năm để đào tạo lớp kế cận mà chưa chắc giữ được họ ở lại [vnexpress.net] [vnexpress.net].

2. Làn sóng nhân viên y tế nghỉ việc gia tăng do áp lực và thu nhập thấp: Trong 2 năm chịu ảnh hưởng COVID-19, hệ thống y tế công lập chứng kiến làn sóng nghỉ việc ồ ạt chưa từng có. Từ đầu 2021 đến giữa 2022, đã có gần 9.400 viên chức y tế xin thôi việc, bỏ việc trên cả nước [baochinhphu.vn] [baochinhphu.vn]. Tại TP.HCM riêng năm 2022, số nghỉ việc hơn 1.500 người (so với mức 400-500 người/năm trước đây) [vnexpress.net], trong đó rất nhiều bác sĩ, điều dưỡng giỏi xin ra khỏi khu vực công lập. Nguyên nhân hàng đầu là áp lực công việc cao nhưng thu nhập quá thấp [vnexpress.net]. Suốt thời gian chống dịch, nhân viên y tế làm việc kiệt sức, nguy hiểm tính mạng nhưng lương chỉ vài triệu đồng/tháng, không đủ sống [baochinhphu.vn] [baochinhphu.vn]. Ví dụ, một bác sĩ mới ra trường 6 năm đào tạo, 18 tháng thực hành chỉ nhận lương cơ bản ~3,49 triệu + phụ cấp 40% = ~4,88 triệu đồng/tháng (chưa trừ bảo hiểm) [baochinhphu.vn] [baochinhphu.vn]. Với mức lương “không đủ đảm bảo nhu cầu tối thiểu” [baochinhphu.vn], không ngạc nhiên khi nhiều người bỏ bệnh viện công sang phòng khám, bệnh viện tư hoặc ra làm ngoài để có thu nhập cao hơn [vnexpress.net]. Một số khác chuyển hẳn nghề hoặc ra nước ngoài. Đáng lo ngại là phần lớn người nghỉ việc thuộc nhóm có nhiều năm kinh nghiệm, trình độ cao, trong khi bệnh viện chỉ tuyển được lớp trẻ mới ra trường thiếu kỹ năng thực hành [vnexpress.net] [vnexpress.net]. Tuy gần đây xu hướng nghỉ việc có “hạ nhiệt” (năm 2024 TP.HCM còn 642 người nghỉ, giảm 28% so với 2023) [vnexpress.net], nhưng tình trạng chảy máu nhân lực công lập vẫn rất nghiêm trọng. Nó cho thấy vấn đề căn cơ về môi trường làm việc và đãi ngộ cần được giải quyết, nếu không bệnh viện công sẽ tiếp tục mất người tài.

3. Đãi ngộ và tiền lương thấp làm giảm động lực làm việc: Cơ chế tiền lương trong khu vực công lập lạc hậu, thu nhập nhân viên y tế công quá thấp so với khối tư [baochinhphu.vn]. Theo khung lương hiện hành, một bác sĩ hệ số 2,34 nhận lương cơ bản chưa tới 3,5 triệu, cộng phụ cấp ưu đãi nghề 40% mới khoảng 4,9 triệu đồng/tháng [baochinhphu.vn]. Mức này chỉ bằng 1/3 – 1/6 thu nhập tại cơ sở y tế tư nhân với cùng trình độ [baochinhphu.vn]. Không những lương thấp, nhiều bệnh viện công không có nguồn chi thu nhập tăng thêm, thưởng hiệu quả do tài chính khó khăn. Một khảo sát nội bộ cho thấy 88% nhân viên đánh giá “hạn chế về ngân sách” là khó khăn lớn nhất cản trở hoạt động của bệnh viện công, khiến các nỗ lực đãi ngộ nhân viên bị giới hạn bởi thủ tục và nguồn lực [lyluanchinhtrivatruyenthong.vn]. Chính sách thu hút nhân tài chưa đủ mạnh: một số tỉnh có hỗ trợ 300-350 triệu đồng cho bác sĩ giỏi về công tác nhưng vẫn khó cạnh tranh với mức đãi ngộ bên ngoài [thanhnien.vn]. Hậu quả là nhân viên y tế thiếu động lực gắn bó, dẫn đến tinh thần làm việc sa sút, hiệu suất giảm và cuối cùng là nghỉ việc. Nhiều bác sĩ trẻ sau vài năm vào bệnh viện công đã xin ra do không đủ sống và thiếu cơ hội phát triển, gây lãng phí nhân lực đã đào tạo [baochinhphu.vn] [baochinhphu.vn]. Về phía người ở lại, gánh nặng công việc càng tăng do thiếu người, nhưng thu nhập không được cải thiện, tạo vòng xoáy luẩn quẩn về nhân sự.

4. Mất cân đối cơ cấu nhân lực và áp lực công việc đè nặng: Nhiều bệnh viện công rơi vào cảnh “vừa thiếu, vừa thừa”: thiếu nhân lực tại chỗ nhưng biên chế lại khó tăng, hoặc phân bố nhân lực không hợp lý. Đặc biệt, tình trạng thiếu điều dưỡng, hộ lý trầm trọng làm giảm chất lượng chăm sóc. Tỷ lệ điều dưỡng/hộ sinh trên bác sĩ ở các bệnh viện công TP.HCM chỉ ~1,86, thấp hơn hẳn chỉ tiêu 2,5/1 theo yêu cầu [vnexpress.net]. Thiếu điều dưỡng do công việc vất vả, thu nhập thấp, ít cơ hội thăng tiến khiến ít người muốn theo nghề hoặc họ chuyển sang khu vực khác [vnexpress.net]. Một số bệnh viện phải đóng cửa bớt giường bệnh, phòng bệnh vì không có đủ điều dưỡng chăm sóc. Bên cạnh đó, cơ chế tuyển dụng công lập cứng nhắc (phải là biên chế hoặc hợp đồng rất hạn chế) khiến bệnh viện không linh hoạt tuyển nhanh nhân sự cần thiết. Khối lượng công việc thì ngày càng tăng: bác sĩ ở bệnh viện tuyến cuối mỗi ngày khám hàng chục bệnh nhân, mổ liên tục; điều dưỡng một người chăm sóc gấp đôi số bệnh nhân so với chuẩn. Cường độ lao động cao kéo dài dẫn tới nhân viên kiệt sức về thể chất và tinh thần [baochinhphu.vn]. Họ thường xuyên làm thêm giờ, trực đêm, ít ngày nghỉ, ảnh hưởng đời sống gia đình [baochinhphu.vn]. Nhiều nhân viên y tế trẻ chịu không nổi áp lực đã rời bỏ bệnh viện công. Sự thiếu hụt nhân lực lại càng làm người ở lại quá tải hơn – một vòng lặp bất lợi cho cả nhân viên và chất lượng dịch vụ. Đây là một thách thức nhân sự nan giải: giữ chân nhân viên cũ khó, tuyển mới cũng không dễ, làm ban lãnh đạo phải liên tục “chữa cháy” bằng luân phiên điều động nhân viên giữa các khoa phòng để tạm thời lấp chỗ trống.

5. Hạn chế trong đào tạo nâng cao và quản trị nhân sự hiện đại: Nhiều bệnh viện công chưa có chiến lược phát triển nhân lực dài hạn, thiếu kế hoạch đào tạo chuyên sâu và bồi dưỡng quản lý. Cơ hội học tập, nghiên cứu cho bác sĩ trong nước còn ít do hạn chế kinh phí và nhân lực thay thế tạm thời. Không ít bác sĩ muốn nâng cao tay nghề nhưng không được cử đi học vì bệnh viện sợ thiếu người làm, hoặc nếu được cử đi thì phải cam kết thời gian phục vụ dài, khiến họ e ngại. Về quản lý, khả năng quản trị nguồn nhân lực chưa chuyên nghiệp: nhiều lãnh đạo khoa phòng xuất phát từ chuyên môn y nhưng chưa qua đào tạo bài bản về quản lý nhân sự. Cơ chế đánh giá hiệu quả công việc còn cảm tính, chưa gắn với thưởng phạt rõ ràng nên chưa thúc đẩy được nhân viên nỗ lực hết mình. Quy định cứng về tổ chức nhân sự cũng cản trở sự linh hoạt: ví dụ quy định mỗi khoa chỉ có tối đa 2 phó khoa, muốn bổ nhiệm trưởng khoa phải có ít nhất 2 năm làm phó khoa… đã hạn chế cơ hội cho người trẻ và gây khó khăn khi khoa phòng mở rộng dịch vụ [tuoitre.vn]. Môi trường làm việc thiếu gắn kết nội bộ: nhiều nhân viên trẻ cảm thấy tiếng nói của mình không được lắng nghe, ít cơ hội đóng góp ý kiến cải tiến. Điều này dẫn đến suy giảm động lực và mong muốn gắn bó lâu dài. Tóm lại, bệnh viện công đang rất cần hiện đại hóa công tác quản trị nhân sự – từ khâu tuyển dụng, đào tạo đến giữ chân và phát triển nhân tài – nếu không muốn rơi vào vòng xoáy thiếu nhân lực triền miên.

6. Tác động tâm lý và an toàn nghề nghiệp: Công việc ở bệnh viện công có đặc thù căng thẳng và rủi ro cao, gây mệt mỏi tích lũy cho nhân viên. Họ thường xuyên chứng kiến bệnh nhân đau đớn, thậm chí tử vong, dễ dẫn đến sang chấn tâm lý và cần được hỗ trợ tinh thần [baochinhphu.vn]. Bên cạnh đó, bạo hành y tế đang là vấn đề nhức nhối: không ít trường hợp thân nhân bệnh nhân lăng mạ, đe dọa hoặc hành hung nhân viên y tế, tạo ra môi trường làm việc mất an toàn [baochinhphu.vn]. Những sự việc này khiến nhân viên lo sợ, hoang mang khi hành nghề, giảm nhiệt huyết cống hiến. Họ cảm thấy không được bảo vệ đúng mức, nhất là khi các vụ việc sai phạm pháp luật về đấu thầu, mua sắm thời gian qua khiến điều kiện làm việc xấu đi (thiếu thiết bị, bảo hộ…) [baochinhphu.vn]. Nỗi sợ vướng vào rắc rối pháp lý hoặc bị dư luận “ném đá” nếu xảy ra sự cố y khoa cũng làm nhiều bác sĩ, điều dưỡng ngại dấn thân vào các ca khó hay ngại phát ngôn giải thích với người nhà bệnh nhân, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng dịch vụ. Từ góc độ quản lý, đảm bảo an toàn và sức khỏe tinh thần cho nhân viên là thách thức lớn. Hiện một số bệnh viện, sở y tế đã phải triển khai biện pháp hỗ trợ: tổ chức các chuyến nghỉ dưỡng phục hồi sức khỏe, động viên tinh thần, hỗ trợ nhân viên có hoàn cảnh khó khăn [vnexpress.net]. Điều này phần nào giúp giảm tỷ lệ nghỉ việc trong thời gian gần đây [vnexpress.net]. Tuy nhiên, về lâu dài, cần các giải pháp căn cơ hơn (pháp luật bảo vệ nhân viên y tế, cải thiện môi trường làm việc, tư vấn tâm lý…) để nhân viên y tế an tâm cống hiến.

Thách thức về Quy trình và Quản lý (Process and Managerial Challenges)

1. Quy trình mua sắm, đấu thầu trang thiết bị phức tạp, nhiều rủi ro: Công tác đấu thầu mua sắm thuốc, vật tư, thiết bị y tế đang trở thành “ác mộng” với nhiều giám đốc bệnh viện công. Quy định pháp lý thay đổi chậm và thiếu hướng dẫn cụ thể khiến quá trình đấu thầu gặp vướng mắc, gián đoạn [tuoitre.vn]. Chẳng hạn, khi Luật Đấu thầu, Luật Trang thiết bị y tế ban hành, chậm có thông tư hướng dẫn chi tiết dẫn đến khoảng trống pháp lý – các bệnh viện lúng túng không biết áp dụng quy trình nào, sợ làm sai sẽ bị thanh tra xử lý [tuoitre.vn]. Bác sĩ Tôn Văn Tài (BV Chợ Rẫy) cho biết năm 2023 bệnh viện triển khai 200 gói thầu nhưng chỉ hoàn thành được 80%, còn 20% gói thầu không có nhà thầu trúng do nhiều nguyên nhân [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Một số thiết bị y tế nhóm C, D chưa có số lưu hành, hoặc nhà thầu yếu năng lực, chậm cung ứng… khiến đấu thầu thất bại; có trường hợp bệnh nhân phải tự mua bên ngoài để điều trị [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Đặc biệt, nỗi sợ bị quy kết sai phạm làm quy trình đấu thầu bị “thắt lại”: các bệnh viện ngại đưa yêu cầu kỹ thuật cao vì sợ bị điều tra cho là “định hướng thầu” [tuoitre.vn]. Do chưa có hướng dẫn về xây dựng tiêu chí kỹ thuật chi tiết, nếu bệnh viện đưa cấu hình máy hiện đại chỉ 1-2 hãng đáp ứng thì dễ “lọt vào tầm ngắm” thanh tra [tuoitre.vn]. Để an toàn, nhiều nơi chỉ dám chọn thông số kỹ thuật ở mức cơ bản mà nhiều hãng có, dẫn đến thiết bị trúng thầu thường ở mức trung bình, bệnh viện công bị tụt hậu 5-10 năm so với tư nhân về độ hiện đại của trang thiết bị [tuoitre.vn]. Quy trình đấu thầu kéo dài hàng nhiều tháng, thậm chí cả năm, giấy tờ phức tạp (như Giám đốc Sở Y tế Cần Thơ than phiền “tải thủ tục đấu thầu mất cả ngày chưa xong”) [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Lãnh đạo bệnh viện phải dành phần lớn thời gian cho đấu thầu, mua sắm, thay vì tập trung công tác chuyên môn và quản lý chiến lược [tuoitre.vn]. Như giám đốc BV Đức Giang chia sẻ: trước đây giám đốc dành 80% thời gian cho chuyên môn, 20% cho đấu thầu, nay thì ngược lại (80% cho đấu thầu) [tuoitre.vn]. Đây thực sự là “điểm nghẽn” quy trình khiến nhiều giám đốc đau đầu tìm cách “gỡ vướng” để bảo đảm bệnh viện có đủ thuốc, thiết bị phục vụ bệnh nhân.

2. Thiếu thuốc, vật tư y tế do vướng mắc đấu thầu và chuỗi cung ứng: Hệ quả nhãn tiền của quy trình mua sắm trục trặc là nhiều bệnh viện công lâm vào tình trạng thiếu thuốc men, vật tư tiêu hao định kỳ. Ông Nguyễn Trọng Khoa (Cục phó Cục Quản lý KCB) thẳng thắn gọi “thiếu thuốc, thiếu vật tư là một sự cố y khoa” nghiêm trọng [tuoitre.vn]. Thời gian qua, không ít bệnh viện phải mượn thuốc từ đơn vị bạn, chạy vạy nhiều nguồn, thậm chí kêu gọi tài trợ, để tạm thời có thuốc cứu bệnh nhân. Nguồn cung ứng bị gián đoạn do nhà thầu trúng thầu không giao đủ hàng, hoặc như phân tích ở trên, đấu thầu thất bại 20% gói ở Chợ Rẫy để lại nhiều mặt hàng không có nhà cung cấp [tuoitre.vn]. Thêm vào đó, yếu tố khách quan từ đại dịch COVID-19 và chiến tranh thế giới gây đứt gãy chuỗi cung ứng dược phẩm, hóa chất toàn cầu, khiến nhiều loại thuốc đặc trị khan hiếm [tuoitre.vn]. Ban giám đốc các bệnh viện phải gồng mình xoay xở để tránh thiếu thuốc: cắt giảm sử dụng, dùng tạm thuốc thay thế kém hiệu quả hơn, hoặc hướng dẫn bệnh nhân tự mua bên ngoài nếu có thể [tuoitre.vn]. Nhưng về lâu dài, chất lượng điều trị chắc chắn bị ảnh hưởng – ví dụ, thiếu vật tư xét nghiệm buộc bệnh viện hạn chế chỉ định cận lâm sàng, dễ bỏ sót chẩn đoán; thiếu thuốc kháng sinh, thuốc ung thư… khiến phác đồ điều trị gián đoạn, nguy cơ biến chứng tăng. Nhân viên y tế cũng ức chế vì không có đủ phương tiện cứu chữa bệnh nhân, “không phát huy được chuyên môn” dẫn đến nhiều người chọn nghỉ việc [baochinhphu.vn]. Có thể nói, bài toán đấu thầu và chuỗi cung ứng đang là “cái khó bó cái khôn” cho quản lý bệnh viện công [baothainguyen.vn]. Dù Bộ Y tế đã ban hành một số giải pháp (như Thông tư 14/2023 cho phép liên hệ trực tiếp nhà cung cấp, chấp nhận trường hợp chỉ có một nhà phân phối không cần đủ 3 báo giá, v.v.) [trade.gov] [trade.gov], nhưng tâm lý e ngại và thủ tục phức tạp vẫn khiến quá trình mua sắm vật tư vẫn chậm ở nhiều nơi [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu thuốc, vật tư đòi hỏi những điều chỉnh mạnh mẽ hơn về chính sách đấu thầu và quản lý cung ứng ở tầm vĩ mô.

3. Quá tải bệnh nhân và thủ tục hành chính gây thời gian chờ đợi kéo dài: Tình trạng quá tải trong quy trình khám chữa bệnh vẫn là “nỗi ám ảnh” của cả bệnh nhân và nhà quản lý. Tại nhiều bệnh viện công tuyến cuối, hình ảnh hàng trăm người chen chúc chờ khám không còn xa lạ [tuoitre.vn]. Bệnh viện Bạch Mai mỗi ngày đón 4.000 – 6.000 bệnh nhân đến khám, hầu như ngày nào cũng quá tải [thanhnien.vn]. Đông bệnh nhân dẫn đến thời gian chờ đợi lâu ở mọi khâu: từ xếp hàng lấy số, đóng viện phí, chờ khám, chờ xét nghiệm đến chờ giường nội trú. Một khảo sát tại TP.HCM cho thấy bệnh nhân phàn nàn nhiều về thời gian làm thủ tục và chờ khám – đặc biệt đợi làm thủ tục nhập viện và đợi bác sĩ khám tại khoa lâm sàng là lâu nhất [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Nhiều người phải mất cả ngày chỉ để khám vài phút, gây tâm lý mệt mỏi, bức xúc. Nguyên nhân không chỉ do quá tải, mà còn do quy trình thủ tục hành chính còn rườm rà. Ở một số bệnh viện, hồ sơ bệnh án giấy vẫn phổ biến, bệnh nhân phải đi lại nhiều bàn nộp phiếu, thanh toán tiền, lấy kết quả… thay vì tích hợp một cửa. Ứng dụng CNTT chưa đồng bộ làm thủ tục thiếu trôi chảy (sẽ phân tích ở phần CNTT). Thêm nữa, cơ chế chuyển tuyến và phân luồng bệnh nhân chưa hiệu quả: nhiều người bệnh nhẹ có thể điều trị ở tuyến dưới nhưng vẫn tự ý lên tuyến trên, tạo áp lực không cần thiết. Ban giám đốc các bệnh viện tuyến cuối rất khó từ chối bệnh nhân, trong khi chưa có chính sách điều tiết bệnh nhân hợp lý giữa các tuyến. Điều này dẫn đến cảnh “bệnh viện tuyến trên quá tải, tuyến dưới vắng khách” kéo dài. Quy trình khám chữa bệnh quá tải không chỉ làm giảm chất lượng dịch vụ, tăng nguy cơ sai sót chuyên môn do bác sĩ phải làm việc quá nhanh, mà còn ảnh hưởng uy tín bệnh viện công trong con mắt người dân. Dù đã có nhiều giải pháp (bệnh viện vệ tinh, khám theo giờ hẹn, cải tiến quy trình một cửa…), nhưng việc giảm tải vẫn tiến triển chậm. Đây là bài toán nan giải về tổ chức quy trình, đòi hỏi sự phối hợp liên thông cả hệ thống thay vì chỉ nỗ lực đơn lẻ từng bệnh viện.

4. Công tác hậu cần và quản trị nội bộ chưa được đầu tư đúng mức: “Hospital logistics” (hậu cần bệnh viện) là hoạt động thầm lặng nhưng thiết yếu, bao gồm quản lý cung ứng vật tư, vận chuyển nội viện, dinh dưỡng, giặt là, vệ sinh, bảo trì thiết bị... Tuy nhiên, tại nhiều bệnh viện công, công tác hậu cần chưa được quan tâm đầy đủ, thiếu đồng bộ [tuoitre.vn]. Hệ quả là các dịch vụ hỗ trợ không theo kịp nhu cầu, ảnh hưởng gián tiếp đến quy trình điều trị. Ví dụ, khu nhà giặt, nhà bếp xuống cấp dẫn đến chăn màn không kịp sạch cho bệnh nhân dùng; thiết bị hỏng chậm được sửa làm gián đoạn dịch vụ; khu vệ sinh, nhà tắm thiếu thốn gây bất tiện cho người bệnh [tuoitre.vn]. Quản lý kho vật tư, thuốc ở một số nơi còn thủ công, dễ thất thoát hoặc hết hạn mà không biết. Chưa có hệ thống logistics hiện đại khiến chi phí vận hành bệnh viện cao hơn mức cần thiết và chất lượng phục vụ giảm. Ngoài ra, quản trị nội bộ như phối hợp giữa các khoa phòng, luân chuyển bệnh nhân nội viện, quản lý thông tin… cũng cần cải thiện. Không ít bệnh nhân than phiền việc đi làm xét nghiệm, chụp X-quang phải tự cầm kết quả quay lại gặp bác sĩ, mất thời gian – lẽ ra kết quả nên truyền trực tuyến giữa các khoa. Kế hoạch hoạt động của bệnh viện đôi khi thiếu sự tham gia của các bộ phận tuyến dưới, dẫn đến triển khai không thông suốt. Những hạt sạn trong quản lý vi mô này tích tụ lại thành “nỗi đau” thường nhật cho ban giám đốc: họ phải lo từ việc lớn đến việc nhỏ, chữa cháy từng khâu hậu cần thay vì tập trung vào chiến lược phát triển. Điều này chỉ ra sự cần thiết của việc chuyên nghiệp hóa công tác quản trị bệnh viện – áp dụng các mô hình quản lý chất lượng toàn diện, đầu tư hệ thống hậu cần và đào tạo nhà quản lý bệnh viện bài bản. Hiện mới có một số ít bệnh viện lớn bắt đầu chú trọng chuẩn hóa quy trình quản trị nội bộ theo tiêu chuẩn quốc tế, còn đa phần chưa theo kịp xu thế này [tuoitre.vn] [tuoitre.vn].

5. Cơ cấu tổ chức và mô hình quản trị thay đổi gây lúng túng: Ngành y tế đang triển khai nhiều cải cách quản trị (như lập Hội đồng quản lý bệnh viện thay cho mô hình giám đốc toàn quyền trước đây, tăng quyền tự chủ cho đơn vị…), tuy nhiên việc chuyển đổi mô hình này còn nhiều bất cập. Lãnh đạo Bệnh viện Chợ Rẫy kiến nghị không nên thành lập hội đồng quản lý bệnh viện ở bệnh viện công trong giai đoạn này vì chưa có hướng dẫn quy chế hoạt động rõ ràng, và lo ngại chồng chéo với vai trò Đảng ủy bệnh viện [tuoitre.vn]. Thực tế, mô hình hội đồng quản lý phù hợp với bệnh viện tư (hội đồng cổ đông), còn bệnh viện công nếu áp dụng cần điều chỉnh cho phù hợp bối cảnh công lập. Việc thiếu hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm của hội đồng và giám đốc gây tâm lý e ngại trong ban lãnh đạo: họ sợ sẽ phải chia sẻ quyền hạn nhưng lại tăng trách nhiệm giải trình, nếu không rõ ràng dễ xảy ra “cha chung không ai khóc”. Tương tự, các quy định về bổ nhiệm, nhân sự còn cứng nhắc (như đã nêu ở phần nhân sự) cũng là trở ngại cho quản lý linh hoạt. Một số lãnh đạo bệnh viện phản ánh cứ 2 năm mới được xem xét bổ nhiệm trưởng khoa từ phó khoa, trong khi nhu cầu thực tế cần người đứng đầu ngay để dẫn dắt chuyên môn [tuoitre.vn]. Quy định mỗi khoa tối đa 2 phó khoa cũng làm khó những khoa lớn, hoạt động 24/7 cần nhiều cấp phó để chia việc [tuoitre.vn]. Nhìn chung, hệ thống tổ chức bộ máy bệnh viện công đang trong giai đoạn chuyển đổi, còn thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết nên ban giám đốc phải “vừa làm vừa dò”, không tránh khỏi lúng túng và mất thời gian. Đây là lý do các lãnh đạo bệnh viện mong muốn cơ quan chủ quản sớm ban hành các quy định, quy chế rõ ràng, dễ hiểu để thực thi [tuoitre.vn], nhằm thống nhất mô hình quản trị mới một cách hiệu quả.

Thách thức về Công nghệ Thông tin (Health IT and Digital Transformation)

1. Hạ tầng công nghệ thông tin và nhân lực IT chưa được đầu tư tương xứng: Mặc dù “chuyển đổi số” ngành y tế đang là xu hướng tất yếu, nhiều bệnh viện công vẫn chưa có hạ tầng CNTT đủ mạnh để triển khai các ứng dụng hiện đại. Cơ sở hạ tầng mạng và phần cứng thiếu đồng bộ, xuống cấp: không ít bệnh viện hệ thống mạng nội bộ, wifi rất yếu, thiết bị máy tính cũ kỹ, không đủ đáp ứng số lượng người dùng đồng thời [soytequangninh.gov.vn]. Nhân lực CNTT chuyên trách lại thiếu trầm trọng – thường chỉ có một phòng CNTT nhỏ với vài nhân viên, chủ yếu lo bảo trì hệ thống hơn là phát triển giải pháp mới. Ông Tăng Chí Thượng (GĐ Sở Y tế TP.HCM) nhận xét hạ tầng CNTT và nhân lực CNTT tại các bệnh viện chưa được đầu tư tương xứng với yêu cầu phát triển kỹ thuật chuyên sâu [tuoitre.vn]. Điều này dẫn đến độ sẵn sàng về công nghệ thấp: nhiều nơi chưa có trung tâm dữ liệu nội bộ, chưa trang bị đủ máy chủ, thiết bị lưu trữ an toàn. Khi triển khai các phần mềm quản lý bệnh viện, hệ thống thường xuyên quá tải hoặc lỗi, gây gián đoạn công việc. Kinh phí dành cho CNTT hạn chế do bệnh viện ưu tiên cho hoạt động chữa bệnh trực tiếp, khiến việc nâng cấp, bảo trì hạ tầng công nghệ thường bị hoãn lại. Một báo cáo cho thấy 88% nhân viên bệnh viện công nhận định “hạn chế về ngân sách và công nghệ” cản trở hoạt động truyền thông số và quản lý [lyluanchinhtrivatruyenthong.vn] – gián tiếp phản ánh sự thiếu thốn đầu tư cho CNTT. Khi hạ tầng yếu kém, bệnh viện không thể triển khai bệnh án điện tử, lưu trữ dữ liệu lớn hay các hệ thống thông minh một cách hiệu quả, làm tụt hậu so với thời đại. Đây là thách thức căn bản mà ban giám đốc các bệnh viện công phải thuyết phục cơ quan chủ quản và nhà nước đầu tư mạnh hơn cho CNTT y tế, nếu muốn thực sự chuyển đổi số thành công.

2. Chuyển đổi số chậm, nhiều nơi vẫn dùng hồ sơ giấy và hệ thống không liên thông: Hiện trạng rời rạc về dữ liệu và quy trình số là vấn đề lớn trong quản lý bệnh viện công. Nhiều cơ sở y tế vẫn lưu trữ hồ sơ bệnh án bằng giấy, thiếu các phần mềm tích hợp [baochinhphu.vn] [baochinhphu.vn]. Hồ sơ giấy gây khó khăn trong truy xuất thông tin, tốn chi phí lưu trữ và dễ thất lạc [baochinhphu.vn]. Mặc dù Bộ Y tế đã ban hành lộ trình bệnh án điện tử, tính đến 2025 vẫn còn khá ít bệnh viện công thực hiện được 100% (Hà Nội tuyên bố 42/42 bệnh viện công triển khai EMR vào cuối 2023, nhưng phạm vi cả nước vẫn còn nhiều tỉnh chưa đạt) [laodong.vn]. Hệ thống thông tin bệnh viện (HIS), xét nghiệm (LIS), chẩn đoán hình ảnh (RIS/PACS) thường do các nhà cung cấp khác nhau xây dựng, thiếu kết nối liên thông giữa các tuyến bệnh viện [baochinhphu.vn]. Ví dụ, thông tin khám chữa bệnh ở tuyến tỉnh không tự động chia sẻ được cho tuyến trung ương, bệnh nhân chuyển viện phải mang theo bản giấy. Dữ liệu y tế chưa đồng bộ còn thể hiện ở chỗ mỗi bệnh viện một kiểu phần mềm, chưa có chuẩn kết nối quốc gia để tích hợp tất cả [baochinhphu.vn]. Chính phủ đã triển khai Hồ sơ sức khỏe điện tử cá nhân nhưng cập nhật còn manh mún, chưa tạo thành cơ sở dữ liệu chung cho toàn hệ thống. Sự chậm trễ trong chuyển đổi số khiến bệnh viện công chưa tận dụng được lợi ích của công nghệ để tối ưu quy trình. Trong khi bệnh viện tư nhân mới mở thường đầu tư hệ thống quản lý hiện đại ngay từ đầu, nhiều bệnh viện công vẫn loay hoay kết hợp giữa sổ sách giấy tờ với phần mềm cục bộ, dẫn đến thao tác nhập liệu lặp lại, dễ sai sót và mất thời gian. Chẳng hạn, bệnh nhân nhập viện vẫn phải điền nhiều biểu mẫu giấy dù thông tin đã có trên hệ thống lúc đăng ký khám. Các báo cáo thống kê cho cấp trên cũng phải trích xuất thủ công từ nhiều nguồn, thiếu tính chính xác kịp thời. Tốc độ chuyển đổi số chậm không chỉ do thiếu tiền mà còn bởi tư duy ngại thay đổi: một bộ phận nhân viên y tế quen làm việc trên giấy, ngại học dùng phần mềm mới, nên lãnh đạo bệnh viện cũng e dè thúc ép triển khai quyết liệt. Sự không liên thông giữa các hệ thống còn gây khó trong giám sát tuyến trên – tuyến dưới: Sở Y tế, Bộ Y tế khó nắm dữ liệu hoạt động realtime của các bệnh viện để điều phối, hỗ trợ khi cần (như trong dịch COVID-19, việc này bộc lộ rất rõ). Do vậy, đẩy mạnh chuyển đổi số là yêu cầu cấp thiết, song hành cùng việc giải quyết những “nỗi đau” khác.

3. Thiếu nhân lực chuyên môn CNTT và kỹ năng số trong đội ngũ y tế: Nguồn nhân lực CNTT y tế đang là điểm yếu của hầu hết bệnh viện công. Đa phần bệnh viện không tuyển được kỹ sư CNTT giỏi vì lương công lập không hấp dẫn trong lĩnh vực này, nên phải thuê ngoài nhiều dịch vụ. Chuyên gia về an ninh mạng, phân tích dữ liệu gần như vắng bóng trong biên chế bệnh viện, dẫn đến khoảng trống về bảo mật và khai thác dữ liệu [baochinhphu.vn] [baochinhphu.vn]. Bên cạnh đó, đội ngũ bác sĩ, điều dưỡng chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng sử dụng hệ thống số [baochinhphu.vn]. Nhiều người lớn tuổi ngại dùng máy tính, chỉ định cận lâm sàng xong vẫn viết phiếu giấy thay vì nhập trên phần mềm. Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong chẩn đoán, điều trị còn mới mẻ, nhân viên chưa có kỹ năng vận hành. Một khảo sát cho thấy 66% cơ sở y tế vẫn dùng phương thức truyền thống để giao tiếp với người bệnh, chỉ 34% chuyển sang nền tảng số hoặc mạng xã hội [dantri.com.vn] [dantri.com.vn] – điều này hàm ý khoảng trống về kỹ năng truyền thông số của nhân viên y tế. Khoảng cách số hóa giữa đô thị và nông thôn cũng rõ nét: các bệnh viện tuyến huyện, vùng sâu vùng xa kết nối internet yếu, nhân viên ít được tập huấn CNTT, làm trầm trọng thêm “bất bình đẳng số” [baochinhphu.vn]. Tư duy “ngại hỏng, ngại bị chê” cũng khiến nhiều bác sĩ không dám truyền thông trên mạng xã hội về kiến thức sức khỏe dù rất cần thiết [dantri.com.vn]. Rõ ràng, đầu tư cho con người quan trọng không kém đầu tư hạ tầng trong chuyển đổi số y tế. Ban giám đốc bệnh viện đang gặp bài toán vừa phải đào tạo nhân viên hiện có thích ứng công nghệ, vừa phải thu hút nhân lực CNTT chuyên sâu vào làm việc trong bệnh viện – điều này đòi hỏi cả cơ chế đãi ngộ phù hợp lẫn thay đổi tư duy của đội ngũ.

4. Nguy cơ mất an toàn dữ liệu và tấn công mạng: Cùng với quá trình số hóa, an ninh mạng và bảo mật dữ liệu y tế nổi lên như một thách thức nghiêm trọng. Dữ liệu sức khỏe cá nhân rất nhạy cảm (thông tin bệnh án, kết quả xét nghiệm HIV, ung thư, số điện thoại, địa chỉ…) nhưng hiện nhiều nơi lưu trữ rời rạc, không mã hóa cẩn thận, dễ bị truy cập hoặc sao chép trái phép [baochinhphu.vn] [baochinhphu.vn]. Thực tế, tình trạng rò rỉ thông tin bệnh nhân diễn ra khá phổ biến: nhiều người bệnh phản ánh vừa xuất viện đã nhận được cuộc gọi mời chào mua thuốc, dịch vụ y tế – chứng tỏ dữ liệu của họ đã bị lộ lọt [baochinhphu.vn] [baochinhphu.vn]. Theo chuyên gia, mỗi tháng có 2.000-3.000 vụ rao bán dữ liệu cá nhân tại Việt Nam, trong đó dữ liệu y tế bị rao bán công khai không ít [baochinhphu.vn]. Một số nhân viên y tế hoặc công ty vận hành phần mềm thậm chí cấu kết bán dữ liệu bệnh viện để trục lợi [baochinhphu.vn] [baochinhphu.vn]. Điều này xâm phạm nghiêm trọng quyền riêng tư của người bệnh, đồng thời gây mất uy tín bệnh viện công. Bên cạnh đó, nguy cơ tấn công của hacker bằng mã độc tống tiền (ransomware) cũng hiện hữu. Trên thế giới đã có nhiều bệnh viện bị mã hóa hệ thống và đòi tiền chuộc, gây tê liệt hoạt động [baochinhphu.vn]. Tại Việt Nam cũng đã ghi nhận các vụ tấn công tương tự, nhưng các đơn vị thường chọn cách im lặng vì lo sợ ảnh hưởng uy tín [baochinhphu.vn]. Cơ sở hạ tầng bảo mật của các bệnh viện công hiện còn rất yếu: ít nơi có tường lửa mạnh, hệ thống phát hiện xâm nhập, sao lưu dữ liệu thường xuyên… Khung quản lý bảo mật chưa đầy đủ, hướng dẫn về bảo mật dữ liệu y tế của Bộ Y tế chưa được phổ biến rộng rãi [baochinhphu.vn]. Nhân viên thì thiếu ý thức và kiến thức về an ninh mạng, dễ mắc bẫy lừa đảo qua email, USB… Do đó, ban giám đốc phải đối mặt với nỗi lo mất an toàn thông tin, vừa có thể gây thiệt hại tài chính, vừa gây hậu quả pháp lý (bệnh viện có thể bị kiện nếu để lộ thông tin bệnh nhân). Việc thiết lập hệ thống bảo mật chặt chẽ đòi hỏi chi phí và nhân lực, càng tạo áp lực cho ngân sách eo hẹp của bệnh viện công. Đây là bài toán khó cần giải quyết đồng bộ: hoàn thiện hành lang pháp lý về bảo vệ dữ liệu, đầu tư công nghệ bảo mật, đào tạo nhân viên và xây dựng quy trình ứng phó sự cố. Nếu không, mặt trái của chuyển đổi số sẽ trở thành “lỗ hổng” nguy hiểm, cản trở tiến trình hiện đại hóa bệnh viện công.

5. Thiếu tiêu chuẩn và quy định pháp lý hỗ trợ chuyển đổi số: Một rào cản nữa trong ứng dụng CNTT tại bệnh viện công là sự thiếu đồng bộ về tiêu chuẩn kỹ thuật và khung pháp lý. Hiện chưa có bộ tiêu chuẩn thống nhất về kết nối liên thông dữ liệu y tế quốc gia, dẫn đến mỗi nơi làm một kiểu, khó tích hợp [baochinhphu.vn]. Tiêu chuẩn về bệnh án điện tử (HL7, FHIR…) hay mã định danh bệnh nhân thống nhất vẫn đang trong quá trình xây dựng. Quy định pháp luật về chữ ký số, xác thực điện tử trong y tế cũng chưa hoàn thiện, gây lúng túng khi triển khai hồ sơ bệnh án điện tử (ví dụ: bác sĩ khám từ xa ký điện tử đơn thuốc có được công nhận không?). Các hướng dẫn bảo mật dữ liệu y tế chưa cụ thể, nhiều bệnh viện chưa biết phải phân quyền truy cập, mã hóa dữ liệu thế nào cho đúng [baochinhphu.vn]. Chưa có chế tài nghiêm khắc để xử lý việc lộ lọt dữ liệu bệnh nhân, dẫn đến ý thức tuân thủ chưa cao [baochinhphu.vn]. Ngoài ra, ngân sách chi cho CNTT y tế trong cơ cấu tài chính bệnh viện công chưa được quy định rõ, nhiều nơi phải “trích” từ nguồn cải cách tiền lương hoặc nguồn tự chủ, dẫn đến thiếu kinh phí đầu tư lâu dài [chinhsachcuocsong.vnanet.vn]. Những khoảng trống chính sách này khiến ban lãnh đạo bệnh viện ngại mạnh dạn ứng dụng CNTT, sợ sau này kiểm toán, thanh tra không có cơ sở pháp lý bảo vệ. Thực tế ngành y tế đã có Đề án chuyển đổi số quốc gia, nhưng để đi vào cuộc sống cần các văn bản hướng dẫn triển khai chi tiết hơn. Ví dụ, Thông tư 14/2023 TT-BYT về đấu thầu thiết bị y tế chỉ hiệu lực tạm thời 6 tháng [trade.gov], bệnh viện rất lo sau 31/12/2023 nếu chưa có nghị định mới thì lại “đứt gánh” giữa chừng. Sự thiếu ổn định và rõ ràng của môi trường pháp lý khiến quá trình tin học hóa bị chậm lại, làm lãnh đạo bệnh viện khó lập kế hoạch dài hạn. Do đó, họ rất mong Bộ Y tế và các cơ quan liên quan sớm hoàn thiện hành lang pháp lý cho y tế số – từ tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo mật đến mô hình hoạt động – để các bệnh viện công yên tâm đầu tư ứng dụng công nghệ mới, tối ưu hóa quy trình quản lý và chuyên môn.

Thách thức về Pháp lý và Chính sách (Legal and Policy Issues)

1. Hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, chậm ban hành hướng dẫn thi hành: Các bệnh viện công đang chịu ảnh hưởng từ những khoảng trống và bất cập trong hệ thống chính sách y tế. Nhiều luật, nghị định liên quan y tế được ban hành nhưng thiếu thông tư hướng dẫn kịp thời, khiến việc thực thi gặp khó khăn. Ví dụ, Luật Đấu thầu và Nghị định 98/2021 về thiết bị y tế có nhiều điểm mới, song thông tư hướng dẫn chi tiết bị chậm ban hành, tạo khoảng trống pháp lý khiến bệnh viện lúng túng trong đấu thầu, mua sắm [tuoitre.vn]. Tương tự, Luật Khám chữa bệnh sửa đổi (số 15/2023/QH15) có hiệu lực từ 2024 với nhiều quy định mới (như giá khám bệnh theo thời gian, cấp chứng chỉ hành nghề có thời hạn…), nhưng cho đến cuối 2025 vẫn đang chờ các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành. Việc chậm trễ này làm các bệnh viện không có cơ sở pháp lý rõ ràng để điều chỉnh hoạt động, dễ dẫn đến “tiến thoái lưỡng nan”: làm theo cái cũ thì sai luật mới, mà làm theo luật mới thì chưa có hướng dẫn. Chẳng hạn, trong giai đoạn chuyển giao Luật Khám bệnh, một số nơi ngừng cấp chứng chỉ hành nghề mới, gây thiếu hụt nhân lực; hay như cơ chế tự chủ tài chính ban hành tại Nghị định 60/2021 nhưng mãi đến 2023 Bộ Y tế mới ban hành Thông tư 13 hướng dẫn phương pháp tính giá, dẫn đến hai năm thí điểm tự chủ toàn diện ở Bạch Mai, BV K không có khung giá dịch vụ theo yêu cầu để thực hiện, khiến họ thua lỗ [thanhnien.vn]. Sự thiếu kịp thời và nhất quán của chính sách làm ban giám đốc bệnh viện công gặp khó trong tuân thủ và vận dụng. Họ luôn canh cánh nỗi lo “phạm luật” dù mục đích chỉ muốn hoạt động hiệu quả. Ngoài ra, nhiều quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản của ngành y với ngành tài chính, nội vụ…, dẫn đến cách hiểu khác nhau ở mỗi nơi. Có trường hợp cùng một vấn đề (như xã hội hóa mua sắm trang thiết bị), thanh tra ở tỉnh này cho là sai nhưng tỉnh kia lại chấp nhận. Mặt pháp lý thiếu rõ ràng khiến lãnh đạo bệnh viện bị động, mất thời gian xin ý kiến, giải trình, làm chậm quá trình ra quyết định quan trọng. Đây là một “nỗi đau” mang tính hệ thống: nếu không sớm hoàn thiện khung pháp lý và hướng dẫn nhất quán, những vướng mắc trong vận hành bệnh viện công sẽ còn tiếp diễn, dù lãnh đạo tại chỗ có cố gắng tháo gỡ đến đâu.

2. Cơ chế tự chủ bệnh viện còn nhiều bất cập và thiếu hỗ trợ: Chính sách tự chủ bệnh viện công lập được triển khai với mục tiêu trao quyền, tăng hiệu quả, nhưng trên thực tế bộc lộ nhiều vấn đề. Thiếu đồng bộ trong cơ chế chính sách đi kèm: tự chủ đòi hỏi bệnh viện phải được tự quyết về tổ chức nhân sự, tài chính và giá dịch vụ, cũng như được cấp vốn ban đầu tương xứng [thanhnien.vn]. Tuy nhiên, như trường hợp Bệnh viện Bạch Mai và BV K, họ phản ánh “chưa bao giờ được giao đủ điều kiện tự chủ” – vẫn phải xin duyệt nhân sự, không được tự định giá, và không được giao vốn phát triển [thanhnien.vn]. Bị cắt ngân sách quá nhanh: theo Nghị quyết 33, 4 bệnh viện trung ương thí điểm tự chủ toàn diện bị dừng cấp ngân sách thường xuyên ngay, khiến họ “tự bơi” sau bao năm vốn quen bao cấp, dẫn tới cú sốc tài chính và vận hành trì trệ [thanhnien.vn]. Thu không đủ chi nhưng vẫn phải lo chi đủ thứ, bệnh viện tự chủ phải cắt giảm nhiều hoạt động như đào tạo, nghiên cứu khoa học (vì trước do ngân sách hỗ trợ nay phải tự lo) [thanhnien.vn]. Không được tự quyết nhân sự, đầu tư: dù tự chủ nhưng nhiều quyết định lớn (mở ngành mới, xây cơ sở 2, liên doanh liên kết…) bệnh viện vẫn phải trình Bộ Y tế hoặc UBND phê duyệt, làm chậm cơ hội kinh doanh. Hội đồng quản lý và giám đốc trong mô hình tự chủ lại chồng chéo vai trò, chưa rõ ai chịu trách nhiệm cuối cùng [thanhnien.vn] [thanhnien.vn]. Những yếu tố này khiến mô hình tự chủ bị “đổ vỡ” ở một số bệnh viện tuyến đầu và gây tâm lý hoang mang cho hơn 1.300 bệnh viện công trên cả nước [thanhnien.vn]. Một chuyên gia kết luận tự chủ không xấu, vấn đề là cách làm vừa qua chưa phù hợp [thanhnien.vn]. Không có cơ chế hỗ trợ lúc đầu nhưng lại đòi hỏi kết quả ngay, dẫn đến bệnh viện buộc phải thương mại hóa, lạm dụng dịch vụ để tồn tại – trái với mục tiêu nâng cao hiệu quả ban đầu [thanhnien.vn]. Hiện Bộ Y tế đã cho phép Bạch Mai, BV K dừng thí điểm tự chủ toàn diện, nhưng tương lai chính sách tự chủ vẫn chưa rõ ràng. Ban giám đốc nhiều bệnh viện ở mức tự chủ một phần cũng ở trạng thái “lay lắt”: cố gắng tự xoay sở nhưng không dám mở rộng vì sợ thua lỗ, còn xin quay về bao cấp 100% thì không được [thanhnien.vn] [thanhnien.vn]. Có thể nói, tự chủ bệnh viện là bài toán lớn chưa có lời giải thỏa đáng, khiến lãnh đạo bệnh viện công rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan – đây cũng là một “nỗi đau” do chính sách gây ra cần sớm được các cấp hoạch định chính sách nhìn nhận và điều chỉnh [thanhnien.vn].

3. Chính sách giá dịch vụ y tế và thanh toán BHYT chưa sát thực tế: Như đã phân tích ở phần tài chính, khung giá dịch vụ y tế do Bộ Y tế ban hành chưa tính đủ chi phí (mới có 4/7 yếu tố) [thanhnien.vn]. Điều này thuộc về chính sách vĩ mô: trong nhiều năm, Nhà nước chưa điều chỉnh giá viện phí lên mức “tính đúng tính đủ” vì lo ngại tác động xã hội. Tuy nhiên, mặt trái là bệnh viện công bị “bó chân” trong thu tài chính, không phản ánh được chi phí thực tế, nhất là khi vật giá, lương nhân công đều tăng [thanhnien.vn]. Cơ chế thanh toán BHYT theo dự toán cũng là một bất cập chính sách: hàng năm BHXH Việt Nam giao dự toán chi phí BHYT cho từng tỉnh, nếu chi vượt thì phải chờ xem xét bổ sung ngân sách, dẫn đến các bệnh viện không được thanh toán kịp thời như đã nêu [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Quy định tạm ứng, quyết toán BHYT phức tạp: bệnh viện phải gửi hồ sơ giám định, thanh toán quý rất mất thời gian; nhiều khoản chi hợp lý nhưng vượt trần cũng không được trả. Chính phủ đã ban hành Nghị định 146 và mới đây Nghị định 188/2025 để giải quyết thanh toán vượt trần, nhưng vẫn cho phép thời gian “vướng mắc, thanh toán” lên tới 12 tháng kể từ khi đề nghị [tuoitre.vn] [tuoitre.vn] – nghĩa là bệnh viện vẫn có thể bị “treo” tiền cả năm trời. Giá dịch vụ không điều chỉnh kịp và thanh toán BHYT chậm trễ dẫn đến tình trạng nhiều bệnh viện mất cân đối thu chi triền miên, nợ đọng tiền thuốc, vật tư [tuoitre.vn]. Đây là vấn đề chính sách vĩ mô gây hệ lụy vi mô: ban giám đốc bệnh viện dù quản lý giỏi đến đâu cũng không thể cân đối nổi nếu cơ chế tài chính bất hợp lý. Bản thân Bộ Y tế cũng thừa nhận bất cập và đang đề xuất “tính đúng, tính đủ” giá dịch vụ, cập nhật biến động giá đầu vào kịp thời [tuoitre.vn]. Tuy nhiên, quá trình điều chỉnh này cần sự đồng thuận của các bộ ngành khác (Tài chính, BHXH…), nên chưa biết khi nào mới thực hiện triệt để. Bệnh viện công vẫn tiếp tục chịu thiệt, dẫn đến nhiều hệ lụy như chất lượng giảm, nhân viên nghỉ việc. Đây là “nút thắt” chính sách then chốt cần tháo gỡ nếu muốn giải quyết nhiều nỗi đau khác của bệnh viện công.

4. Giới hạn về quyền tự chủ tổ chức, nhân sự và đầu tư của bệnh viện công: Do đặc thù đơn vị sự nghiệp công lập, các bệnh viện công không được toàn quyền trong nhiều quyết định quản trị quan trọng. Công tác tổ chức nhân sự: bổ nhiệm cấp phó, cấp trưởng khoa phải theo khung tiêu chuẩn chung, thậm chí có nơi còn phải trình Sở Y tế phê duyệt nhân sự chủ chốt. Tuyển dụng biên chế phải theo chỉ tiêu được giao, muốn tuyển thêm hợp đồng ngắn hạn cũng bị ràng buộc định mức. Chế độ tiền lương, thưởng do nhà nước quy định khung cứng, bệnh viện không có quyền tự xây dựng hệ số lương hay thưởng theo hiệu quả như doanh nghiệp. Công tác đầu tư, mở rộng dịch vụ: bệnh viện công muốn liên doanh đặt máy móc hay mở phòng khám dịch vụ phải xin phép cấp chủ quản; thủ tục kéo dài và nhiều khi bị bác bỏ vì không phù hợp quy hoạch. Ví dụ, Bệnh viện Bạch Mai từng muốn đầu tư robot phẫu thuật hiện đại nhưng phải xin Bộ Y tế phê duyệt, thủ tục phức tạp, cuối cùng phải liên kết tư nhân đặt máy (dẫn đến vụ việc lùm xùm sau này) [thanhnien.vn] [thanhnien.vn]. Hạn chế quyền tự quyết khiến ban giám đốc bệnh viện công khó linh hoạt thích ứng với nhu cầu mới. Khi thấy thiếu nhân lực ở khoa trọng yếu, họ không thể nhanh chóng tuyển người giỏi từ nơi khác về do rào cản biên chế và mức lương thấp. Khi muốn triển khai kỹ thuật mới đòi hỏi vốn đầu tư máy móc, họ phải chờ ngân sách cấp hoặc mời gọi liên doanh (mà liên doanh cũng bị xét duyệt ngặt nghèo). Cơ chế phối hợp với tư nhân (PPP) trong xây mới bệnh viện, thuê dịch vụ ngoài (như thuê giặt là, xe cứu thương tư) chưa có hướng dẫn cụ thể, nên nhiều nơi ngại triển khai vì sợ “trái quy định”. Tất cả làm cho bệnh viện công vận hành kém hiệu quả, dù ban giám đốc có ý tưởng cải tiến cũng dễ vướng “trần” cơ chế. Chính phủ đang chủ trương phân cấp, giao quyền nhiều hơn nhưng thực tế tâm lý cẩn trọng khiến các cấp quản lý chưa mạnh dạn cho bệnh viện tự chủ nhân sự, đầu tư. Điều này đặt ban giám đốc vào tình thế chịu trách nhiệm cao nhưng quyền hạn hạn chế, một nghịch lý gây áp lực nặng nề. Để tháo gỡ, cần sửa đổi các quy định liên quan (như Luật Viên chức, Luật Đầu tư theo phương thức PPP, Nghị định về tự chủ…) nhằm mở rộng quyền tự quyết cho bệnh viện công trong khuôn khổ giám sát hợp lý. Nếu không, “chiếc áo cơ chế quá chật” sẽ tiếp tục trói buộc sự phát triển của các bệnh viện công lập.

5. Môi trường pháp lý phòng chống tham nhũng, sai phạm quá nghiêm ngặt gây tâm lý e dè: Sau các vụ bê bối lớn trong ngành y (như vụ kit xét nghiệm Việt Á, vụ nâng khống giá thiết bị ở Bạch Mai…), Nhà nước đã tăng cường giám sát, xử lý vi phạm rất mạnh mẽ. Tuy đây là việc cần thiết, nhưng hệ quả là tạo ra tâm lý “sợ sai” lan rộng trong đội ngũ quản lý bệnh viện công. Nhiều giám đốc, kế toán trưởng ngại phê duyệt chi tiêu, ngại mua sắm gì có yếu tố nhạy cảm vì sợ nếu lỡ sai sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thanh tra, kiểm toán hoạt động dày đặc, có nơi vừa kiểm toán xong, thanh tra lại tới, khiến lãnh đạo bệnh viện luôn căng thẳng lo giải trình từng hóa đơn. Chế tài xử phạt nghiêm khắc (như không khoan nhượng cả với một số bác sĩ đầu ngành vướng vào sai phạm đấu thầu) tuy có tác dụng răn đe nhưng cũng làm lung lay tinh thần nhiều cán bộ quản lý. Họ thiếu hướng dẫn cụ thể để biết ranh giới đúng – sai, thành ra chọn cách an toàn là không làm gì cả hoặc làm tối thiểu, dẫn tới trì trệ trong quyết định. Ví dụ, như đã phân tích, các bệnh viện sợ bị quy kết “định hướng thầu” nên chỉ dám mua sắm thiết bị trung bình, không dám chọn loại tốt nhất phục vụ người bệnh [tuoitre.vn]. Việc chỉ định thầu trong tình huống cấp bách tuy cho phép nhưng do chưa rõ tiêu chí thế nào là “cấp bách”, bệnh viện cũng không dám áp dụng vì sợ bị quy tội sai quy định [tuoitre.vn]. Có tình trạng “cái khó bó cái khôn”, ví dụ bác sĩ biết máy X quang cũ có thể hỏng bất cứ lúc nào, muốn xin chỉ định thầu mua gấp máy mới để không gián đoạn dịch vụ – nhưng vì sợ không đủ điều kiện chỉ định thầu, họ đành chờ đấu thầu thường lệ, máy hỏng bệnh nhân phải chuyển viện chịu thiệt. Tâm lý sợ trách nhiệm cũng ảnh hưởng cả các quyết định chuyên môn: bác sĩ ngại sử dụng thuốc mới đắt tiền dù tốt hơn, sợ sau này bị thanh tra nếu vượt dự toán BHYT. Tóm lại, môi trường quản lý siết chặt kỷ cương tuy giúp giảm tiêu cực nhưng cũng vô tình tạo rào cản tâm lý khiến ban giám đốc bệnh viện khó mạnh dạn đổi mới, sáng tạo. Bài toán đặt ra là làm sao cân bằng giữa kiểm soát và khuyến khích: vừa ngăn ngừa sai phạm, vừa tạo điều kiện cho người thực tâm muốn làm tốt. Đây là trách nhiệm của cơ quan quản lý cấp trên trong việc hoàn thiện cơ chế giám sát minh bạch, thưởng – phạt phân minh, tránh để “con sâu làm rầu nồi canh” ảnh hưởng tới số đông nhà quản lý bệnh viện liêm chính.

6. Vướng mắc pháp lý trong hợp tác công tư và xã hội hóa y tế: Để bổ sung nguồn lực, Nhà nước khuyến khích xã hội hóa, liên doanh liên kết trong y tế, nhưng trên thực tế triển khai còn nhiều bất cập. Khung pháp lý cho PPP (đối tác công tư) trong y tế chưa cụ thể, các bệnh viện lúng túng khi mời gọi đầu tư tư nhân. Ví dụ, muốn hợp tác xây khu khám dịch vụ hay trung tâm kỹ thuật cao, bệnh viện phải định giá tài sản góp vốn, tổ chức đấu thầu đối tác… thủ tục rất phức tạp và thời gian kéo dài. Trong khi đó, rủi ro pháp lý cao nếu định giá sai hay chọn đối tác chưa minh bạch: trường hợp BV Bạch Mai liên kết lắp đặt robot Rosa giá 39 tỷ (cao gấp đôi giá gốc) đã dẫn đến giám đốc bệnh viện bị khởi tố [thanhnien.vn] [thanhnien.vn]. Sự việc này tạo ra tâm lý e ngại xã hội hóa trong nhiều lãnh đạo bệnh viện: họ sợ dính vào liên doanh liên kết sẽ “nhúng chàm”, nên thà từ chối mọi đề nghị hợp tác dù biết có lợi cho bệnh viện. Quy định về sử dụng tài sản công để liên doanh cũng chưa rõ ràng: một số nơi góp mặt bằng lắp máy liên doanh đã bị truy thu tiền thuê đất, khiến bệnh viện thiệt hại tài chính và mất uy tín. Chính sách thu hút tư nhân vào các dịch vụ phi y tế (như thuê ngoài căng-tin, bãi giữ xe, vệ sinh) cũng phức tạp: đấu thầu giá cao thì sợ đối tác cắt xén chất lượng, giá thấp lại bị cho là thất thoát tài sản công. Sự thiếu thông thoáng của hành lang pháp lý làm nhiều bệnh viện công không tận dụng được nguồn lực xã hội hóa, trong khi ngân sách eo hẹp không đủ đáp ứng nhu cầu. Từ góc độ người quản lý, đây là “nỗi đau” khi nhìn thấy cơ hội mà không dám nắm bắt vì rủi ro pháp lý quá lớn. Đặc biệt, chính sách liên kết máy móc (cho đặt máy rồi thu theo dịch vụ) từng giúp nâng cao chất lượng chẩn đoán nhưng giờ bị hạn chế do sợ lợi ích nhóm, khiến nhiều bệnh viện thiếu thiết bị chẩn đoán hiện đại vì không đủ tiền mua. Việc ban hành các hướng dẫn, định mức rõ ràng cho mô hình hợp tác là rất cần thiết. Chẳng hạn, nếu có cơ chế định giá độc lập và công khai khi liên doanh, cũng như nguyên tắc phân chia lợi nhuận hợp lý, thì bệnh viện công sẽ mạnh dạn bắt tay với tư nhân hơn để mở rộng dịch vụ. Hiện Bộ Y tế đang lấy ý kiến cho thông tư mới về liên doanh liên kết, hy vọng sẽ gỡ bớt rào cản. Nhưng cho đến lúc đó, ban giám đốc các bệnh viện công vẫn phải “chơi vơi” giữa nhu cầu phát triển và nỗi lo vướng pháp luật.

7. Chính sách nhân lực y tế chưa hoàn thiện, chưa tạo đòn bẩy giữ chân người tài: Ở tầm vĩ mô, hệ thống chính sách về nhân lực y tế công lập còn nhiều hạn chế khiến bệnh viện công thất thế trong cuộc cạnh tranh nhân tài. Chế độ lương, phụ cấp lỗi thời: phụ cấp ưu đãi nghề 20-70% tùy nơi nhưng tính trên lương cơ bản thấp nên thực nhận không bao nhiêu; chưa có phụ cấp thâm niên trở lại (trước 2019 có phụ cấp thâm niên nhưng sau đó bị cắt bỏ) [vnexpress.net]. Phụ cấp độc hại, nguy hiểm cho nhân viên ở khoa Lao, tâm thần… vẫn rất thấp dù rủi ro cao. TP.HCM đã kiến nghị Trung ương tăng mức phụ cấp cho nhân viên môi trường độc hại và khôi phục phụ cấp thâm niên cho điều dưỡng, hộ sinh lâm sàng – những vị trí khó tuyển dụng – để họ yên tâm làm việc [vnexpress.net] [vnexpress.net]. Chính sách thu hút nhân lực vùng sâu, vùng xa tuy có nhưng chưa đủ hấp dẫn: hỗ trợ vài trăm triệu đồng khó bù đắp việc bác sĩ giỏi phải làm xa trung tâm, thiếu điều kiện phát triển chuyên môn [thanhnien.vn]. Quy định bắt buộc luân phiên cán bộ y tế tuyến trên về hỗ trợ tuyến dưới (theo Thông tư 04/2013) triển khai chưa hiệu quả, một phần vì chính sách cho người luân phiên không thỏa đáng, bệnh viện tuyến trên cũng không “mặn mà” cử người giỏi đi nếu không có cơ chế thưởng. Khung pháp lý về chức danh, vai trò mới: Bộ Y tế đang đề xuất bổ sung vị trí trợ lý điều dưỡng, trợ thủ nha khoa… để hỗ trợ giảm tải cho điều dưỡng/bác sĩ [vnexpress.net], nhưng hiện tại các chức danh này chưa có mã ngạch chính thức, bệnh viện muốn thuê cũng không biết xếp vào đâu. Luật Khám chữa bệnh mới yêu cầu bác sĩ, điều dưỡng liên tục cập nhật kiến thức (CPD) để gia hạn chứng chỉ, song chưa có hướng dẫn rõ về tổ chức khóa học, kinh phí…, làm cả nhân viên lẫn bệnh viện lúng túng. Tóm lại, khuôn khổ chính sách nhân lực y tế chưa theo kịp thực tiễn, nhiều điểm bất cập đã góp phần gây nên cuộc khủng hoảng nhân sự như đã phân tích. Ban giám đốc bệnh viện công rất cần những đòn bẩy chính sách mạnh (lương khởi điểm cao hơn, phụ cấp thâm niên, học bổng đào tạo, cam kết ràng buộc hợp lý…) để giữ người, nhưng việc này nằm ngoài tầm tay họ. Do đó, họ phải liên tục kiến nghị các cấp, song việc sửa đổi chính sách thường chậm chạp. Trong khi chờ đợi, “chảy máu chất xám” vẫn diễn ra, trở thành nỗi trăn trở lớn nhất của nhiều giám đốc bệnh viện công hiện nay.

8. Thách thức trong thực thi các quy định mới về chất lượng và an toàn bệnh viện: Nhà nước ban hành ngày càng nhiều quy định nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh (như bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện, tiêu chí bệnh viện an toàn COVID-19, chuẩn quốc gia về y tế cơ sở…), tuy nhiên việc áp dụng cũng đặt ra không ít khó khăn cho bệnh viện công. Nguồn lực hạn chế khiến nhiều nơi không đạt nổi các tiêu chuẩn cao: ví dụ, để đạt chứng nhận bệnh viện thực hành tốt an toàn người bệnh cần đầu tư cả về cơ sở vật chất (phòng cách ly, hệ thống báo động sự cố…) lẫn đào tạo nhân viên, mà không phải bệnh viện công nào cũng lo nổi. Chỉ tiêu chất lượng (tiêu chí chấm điểm bệnh viện hàng năm) đôi khi chưa phù hợp thực tế địa phương nhưng bệnh viện vẫn phải chạy theo để không bị đánh giá thấp. Áp lực kiểm định, đánh giá liên tục (từ Sở Y tế, Bộ Y tế, BHYT) tạo gánh nặng giấy tờ, báo cáo cho bệnh viện vốn đã thiếu nhân sự. Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023 yêu cầu thiết lập hội đồng quản lý chất lượng, hội đồng an toàn người bệnh tại các bệnh viện, nhưng nhiều nơi lúng túng thành lập cho có vì chưa có hướng dẫn chi tiết vai trò, hoạt động. Mặt khác, một số quy định hành chính cứng nhắc cũng gây phản ứng: chẳng hạn quy định bác sĩ phải kê đơn thuốc bằng tên generic gây khó cho bệnh nhân muốn mua thuốc đúng biệt dược, hay quy định giờ làm việc hành chính cứng cho bệnh viện khiến mô hình khám ngoài giờ bị hạn chế (gần đây Bộ Y tế đã cho phép linh hoạt hơn). Sự thay đổi chính sách liên tục (như thay đổi về phân tuyến chuyên môn kỹ thuật, danh mục kỹ thuật được phép làm ở từng tuyến) cũng buộc bệnh viện phải cập nhật quy trình, đào tạo lại nhân viên, tiêu tốn thời gian và chi phí. Tất nhiên, các quy định này nhằm mục tiêu tốt, nhưng trong ngắn hạn, ban giám đốc bệnh viện công vừa phải nỗ lực nâng chất lượng, vừa phải đảm bảo tuân thủ đủ thứ tiêu chuẩn, tạo áp lực không nhỏ. Ví dụ thực tế: Hiện tại mới chỉ 1 bệnh viện công lập (BV Hùng Vương TP.HCM) đạt chứng nhận quốc tế về chất lượng bệnh viện (ACHSI của Úc) [tuoitre.vn], trong khi nhiều bệnh viện tư nhân đã đạt JCI, ISO… Ông Nguyễn Trọng Khoa thừa nhận bệnh viện công gặp thách thức lớn khi tham gia các bộ tiêu chuẩn quốc tế do quá tải, thiếu nguồn lực và nhiều hạn chế nội tại [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Điều này cho thấy khoảng cách giữa chính sách mong muốn và thực tiễn khả thi. Ban giám đốc bệnh viện công vừa phải tuân thủ luật định, vừa phải khéo léo vận dụng để không làm đình trệ hoạt động – một bài toán quản trị phức tạp mà không phải ai cũng đủ năng lực và sự hỗ trợ để giải.

Thách thức về Chất lượng Điều trị và Dịch vụ (Quality of Care Challenges)

1. Quá tải bệnh nhân ảnh hưởng đến chất lượng và an toàn điều trị: Overload là vấn đề nổi cộm tác động trực tiếp đến chất lượng khám chữa bệnh trong các bệnh viện công. Khi bệnh viện luôn trong tình trạng “đông đúc đến ngộp thở”, dịch vụ y tế khó có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người bệnh [tuoitre.vn]. Nguy cơ và rủi ro tăng cao: bác sĩ phải khám quá nhanh, trung bình chỉ vài phút mỗi bệnh nhân, dễ dẫn đến sót bệnh hoặc chẩn đoán chưa kỹ. Điều dưỡng vì phụ trách quá nhiều bệnh nhân nên chăm sóc không chu đáo, có khi tiêm thuốc nhầm do áp lực thời gian. Thời gian nằm viện trung bình cũng có xu hướng tăng lên ở những bệnh viện tự chủ phải thu hút bệnh nhân [thanhnien.vn], tạo vòng luẩn quẩn quá tải. Ông Nguyễn Trọng Khoa chỉ rõ: bệnh viện càng quá tải, nguy cơ rủi ro càng lớn, chất lượng khó đảm bảo [tuoitre.vn]. An toàn người bệnh bị đe dọa khi giường bệnh phải ghép đôi, ghép ba; nhiễm trùng bệnh viện dễ lây lan trong cảnh đông đúc. Một báo cáo cho thấy tình trạng chỉ định các dịch vụ kỹ thuật cao không cần thiết có xu hướng tăng tại bệnh viện tự chủ để tăng doanh thu, làm trầm trọng thêm quá tải và tiềm ẩn nguy cơ cho bệnh nhân [thanhnien.vn]. Ngoài ra, môi trường khám chữa bệnh quá tải gây căng thẳng cho cả thầy thuốc và bệnh nhân, làm giảm trải nghiệm chăm sóc. Nhiều bệnh nhân bức xúc với bệnh viện công vì phải chờ đợi mệt mỏi, cơ sở vật chất chật chội [tuoitre.vn]. Dù chuyên môn bác sĩ có tốt đến đâu nhưng dịch vụ chờ đợi lâu, không thoải mái cũng khiến người bệnh không hài lòng, mất niềm tin. Quá tải là “nỗi đau” vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của các vấn đề khác (nhân lực thiếu, tuyến dưới yếu…). Ban giám đốc bệnh viện công hiểu rõ giảm quá tải sẽ nâng chất lượng, nhưng giảm bằng cách nào khi mà cầu vượt quá cung và hệ thống chưa phân phối hợp lý bệnh nhân? Đây là bài toán cần giải ở tầm chính sách vĩ mô, còn ở tầm bệnh viện, các giải pháp như mở rộng cơ sở 2, cải tiến quy trình, tăng thời gian khám… chỉ giúp cải thiện phần nào. Vì vậy, quá tải vẫn là thách thức số một về chất lượng đối với bệnh viện công lập [tuoitre.vn].

2. Trang thiết bị và cơ sở vật chất lạc hậu hạn chế khả năng điều trị: Chất lượng điều trị phụ thuộc nhiều vào trang thiết bị y tế, nhưng nhiều bệnh viện công đang phải xoay xở với máy móc cũ kỹ, thiếu thốn. Theo đánh giá của Bộ Y tế, phần lớn thiết bị y tế ở bệnh viện công đã lỗi thời, cần thay thế [trade.gov] [trade.gov]. Nhiều bệnh viện tuyến tỉnh, huyện không có đủ trang thiết bị cho phẫu thuật và hồi sức [trade.gov]. Ngay cả bệnh viện tuyến trung ương, tình trạng máy móc hỏng hóc chờ sửa, thiếu máy dự phòng không hiếm xảy ra do đấu thầu chậm. Hậu quả là một số kỹ thuật cao không triển khai được, hoặc phải chuyển bệnh nhân lên tuyến trên hơn nữa, gây chậm trễ điều trị. Ví dụ, một bệnh viện tỉnh thiếu máy chụp MRI, bệnh nhân phải chuyển lên thành phố chụp, mất thêm thời gian và có thể lỡ cơ hội can thiệp sớm. Cơ sở hạ tầng xuống cấp (như hệ thống oxy trung tâm cũ kỹ, phòng mổ không đạt tiêu chuẩn vô khuẩn…) cũng khiến bệnh viện không đáp ứng được tiêu chí chất lượng. Việc không đồng bộ giữa phát triển kỹ thuật chuyên sâu với nâng cấp cơ sở hạ tầng đã được lãnh đạo Sở Y tế TP.HCM chỉ ra như một thách thức quản trị: kỹ thuật mới đưa về nhưng phòng ốc, thiết bị hỗ trợ chưa tương xứng [tuoitre.vn]. Khoảng cách về độ hiện đại thiết bị giữa bệnh viện công và tư ngày càng lớn do công lập ngại mua sắm máy đắt tiền (như đã phân tích, sợ đấu thầu khó khăn) [tuoitre.vn]. Điều này làm chất lượng chẩn đoán, điều trị ở bệnh viện công bị thua thiệt. Ví dụ, bệnh viện tư có máy xạ trị thế hệ mới chữa ung thư hiệu quả cao, bệnh viện công chưa có thì bệnh nhân sẽ chọn ra ngoài nếu có điều kiện. Cơ sở vật chất không tốt còn ảnh hưởng tinh thần người bệnh: một bệnh nhân ung thư kể lại mỗi lần vào hóa trị ở cơ sở cũ chật chội, nóng nực là một “ám ảnh”, còn khi chuyển sang cơ sở mới khang trang thì tâm trạng thoải mái hơn, bệnh tình đáp ứng tốt hơn [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Rõ ràng, điều kiện vật chất là một phần của chất lượng chăm sóc. Khi bệnh viện công thiếu đầu tư cho hạ tầng và thiết bị, ban giám đốc vừa khó giữ chân bệnh nhân (vì họ so sánh thấy công lập “nhếch nhác” hơn tư nhân) [tuoitre.vn], vừa khiến đội ngũ bác sĩ không phát huy hết chuyên môn (vì thiếu công cụ tốt) [baochinhphu.vn]. Đây là một vòng lặp tiêu cực cho chất lượng điều trị mà nhiều giám đốc bệnh viện công đang trăn trở tìm cách khắc phục.

3. Thiếu thuốc, vật tư y tế làm gián đoạn và suy giảm hiệu quả điều trị: Chất lượng điều trị tất nhiên suy giảm khi bệnh viện không đủ thuốc men, vật tư cần thiết. Thời gian qua, nhiều nơi xảy ra tình trạng điều trị cầm chừng do thiếu thuốc: bác sĩ phải đổi phác đồ hoặc giảm liều. Thiếu thuốc gây hậu quả trực tiếp: bệnh nhân đau nhưng không có thuốc giảm đau mạnh, bệnh nhân nhiễm trùng nhưng thiếu kháng sinh đặc hiệu, bệnh nhân mổ xong thiếu vật tư thay băng, v.v. Những gián đoạn hoặc thay thế này khiến hiệu quả điều trị giảm, biến chứng tăng. Người bệnh chịu thiệt thòi: có người phải tự mua thuốc bên ngoài (nếu tìm được), hoặc chấp nhận dùng thuốc kém hiệu quả hơn. Ông Nguyễn Trọng Khoa nhấn mạnh, thiếu thuốc, vật tư y tế chính là một “sự cố y khoa” vì nó làm dịch vụ không đạt yêu cầu tối thiểu cho bệnh nhân [tuoitre.vn]. Chất lượng điều trị không ổn định: tuần này bệnh viện có thuốc X điều trị chuẩn, tuần sau hết thuốc phải dùng thuốc Y dự phòng kém hơn – điều này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả điều trị dài hạn (đặc biệt với bệnh mãn tính như ung thư, tim mạch). Niềm tin của người bệnh suy giảm: bệnh nhân mất niềm tin nếu bệnh viện công liên tục báo “hết thuốc A, anh/chị đi mua ngoài” hoặc “đợi một tuần nữa mới có vật tư mổ”. Thiếu vật tư tiêu hao và thiết bị thông thường cũng gây trì hoãn dịch vụ: ví dụ kim tiêm, găng tay, phim X-quang thiếu có thể khiến việc tiêm truyền hay chụp chiếu bị dừng, bác sĩ phải ưu tiên trường hợp nặng, trường hợp nhẹ hẹn lại – kéo dài thời gian điều trị, có khi bệnh nặng thêm. Chất lượng chăm sóc cũng giảm nếu thiếu những vật tư cơ bản: thiếu ống thông tiểu, bệnh nhân đành chịu khó; thiếu bơm tiêm điện, phải nhỏ giọt tay không chính xác… Về an toàn người bệnh, thiếu phương tiện bảo hộ (PPE) có thể làm lây nhiễm chéo, thiếu hóa chất tiệt trùng có thể gây nhiễm khuẩn bệnh viện. Tất cả những điều này minh chứng rằng đảm bảo đủ thuốc và vật tư là điều kiện tiên quyết cho chất lượng điều trị. Ban giám đốc bệnh viện công hiểu rõ điều đó, nhưng như phân tích ở phần quy trình, họ đang bị trói buộc bởi đấu thầu và dự toán BHYT. Đứng giữa lựa chọn: vi phạm quy định để mua khẩn cấp hay tuân thủ để thiếu thuốc? – đó là tình huống tiến thoái lưỡng nan mà nhiều nhà quản lý đang gặp. Đáng mừng là cuối 2022-2023, Chính phủ đã có một số nghị quyết “gỡ rối” tạm thời (như cho phép gia hạn hiệu lực số đăng ký thuốc, dùng kết quả đấu thầu tập trung quốc gia…), tình trạng thiếu thuốc đã giảm hơn trước [tuoitre.vn]. Tuy nhiên, việc xây dựng chu trình cung ứng ổn định, bền vững vẫn là bài toán dài hạn để đảm bảo chất lượng điều trị không bị ảnh hưởng bởi yếu tố phi chuyên môn. Chừng nào việc này chưa xong, chừng đó nỗi lo thiếu thuốc, vật tư vẫn đè nặng lên vai ban giám đốc, và chất lượng chữa bệnh ở bệnh viện công còn phập phồng theo tình hình đấu thầu.

4. Hạn chế về nhân lực và thái độ phục vụ ảnh hưởng trải nghiệm điều trị: Chất lượng điều trị không chỉ là chuyên môn mà còn là chất lượng phục vụ và trải nghiệm người bệnh. Hiện nay, do thiếu nhân lực và áp lực công việc, một số bệnh viện công bị phàn nàn về thời gian dành cho người bệnh quá ít và thái độ nhân viên chưa tốt [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Ví dụ, một bác sĩ nội trú ở bệnh viện tuyến cuối có khi chỉ khám 5 phút/bệnh nhân, không kịp giải thích kỹ tình trạng bệnh, dẫn đến người bệnh không hiểu rõ hướng dẫn, tuân thủ kém – hiệu quả điều trị giảm sút dù phác đồ đúng. Thái độ giao tiếp của nhân viên y tế cũng ảnh hưởng tâm lý người bệnh. Khi nhân viên do quá tải mà cáu gắt, trả lời qua loa, bệnh nhân cảm thấy bị thiếu tôn trọng, thậm chí có trường hợp vì bức xúc thái độ mà bỏ dở điều trị. Khảo sát tại TP.HCM cho thấy nhiều người dân mong muốn cải thiện hơn nữa thái độ nhân viên y tế, bởi “dù bệnh viện chữa tốt đến đâu mà thái độ không tốt, dân cũng không muốn tới” [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Điều này cho thấy chất lượng dịch vụ (service quality) là một phần không thể tách rời của chất lượng điều trị tổng thể. Bệnh viện công trong mắt một bộ phận dân chúng vẫn mang định kiến “khám công thì đông đúc, chờ lâu, bác sĩ lạnh lùng”, trong khi bệnh viện tư “dịch vụ tốt, niềm nở hơn” [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Dù thực tế vài năm gần đây nhiều bệnh viện công đã chuyển mình đáng kể (học tập mô hình “Hello – xin – cảm ơn” như Chợ Rẫy áp dụng để nâng cao sự thấu cảm giữa nhân viên và bệnh nhân) [tuoitre.vn] [tuoitre.vn], nhưng không thể phủ nhận vẫn còn hiện tượng nhân viên y tế ứng xử chưa chuẩn. Nguyên nhân gốc rễ lại quay về quá tải, stress, chính sách đãi ngộ… – tức là những nỗi đau đã nêu ở trên. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đồng đều: bên cạnh nhiều bác sĩ giỏi, vẫn có một số bác sĩ tay nghề hạn chế ở tuyến dưới, khiến chất lượng điều trị không đồng nhất giữa các tuyến. Người dân mất niềm tin vào tuyến dưới, dồn lên tuyến trên, gây quá tải và tạo ra vòng luẩn quẩn chất lượng. Chênh lệch chất lượng giữa các vùng miền cũng là khía cạnh cần nhìn nhận: bệnh viện công tuyến huyện ở vùng sâu có thể chưa có bác sĩ chuyên khoa sâu, thiếu thiết bị, dẫn tới chất lượng điều trị thấp, trong khi bệnh viện thành phố lại quá tải. Điều này không chỉ là vấn đề chuyên môn mà còn bất bình đẳng xã hội trong chăm sóc y tế [thanhnien.vn]. Từ góc độ ban giám đốc bệnh viện công, đảm bảo chất lượng chuyên môn và dịch vụ là sứ mệnh hàng đầu, nhưng họ đang phải chèo chống trong điều kiện khó khăn. Những nỗ lực đổi mới phong cách, cải thiện cơ sở vật chất phục vụ bệnh nhân (như Bạch Mai lập khuôn viên, căng-tin sạch sẽ, lắp máy sưởi, phun nước làm mát cho người nhà bệnh nhân…) đã ghi nhận kết quả tích cực: bệnh nhân nhận xét “bệnh viện đã khác xưa rất nhiều, sạch sẽ, hướng dẫn tận tình, không lo bị ‘chặt chém’ nữa” [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Điều này cho thấy khi lãnh đạo quyết tâm và có nguồn lực, chất lượng dịch vụ bệnh viện công có thể cải thiện rõ rệt, lấy lại niềm tin người bệnh. Tuy nhiên, không phải bệnh viện nào cũng đủ điều kiện làm được như vậy. Khoảng cách về chất lượng giữa bệnh viện công với nhau và với bệnh viện tư vẫn tồn tại. Kết quả, mỗi năm khoảng 40.000 người Việt phải ra nước ngoài chữa bệnh, tiêu tốn ~2 tỷ USD do trong nước chưa đáp ứng được kỳ vọng dịch vụ chất lượng cao [trade.gov]. Đây là con số biết nói: nếu nâng được chất lượng điều trị – dịch vụ trong nước lên, sẽ giữ chân được dòng tiền và niềm tin của người dân. Vì thế, áp lực đè lên vai ban giám đốc bệnh viện công rất lớn – họ phải cải thiện chất lượng toàn diện để vừa phục vụ người bệnh tốt hơn, vừa cạnh tranh với khu vực tư và giảm chảy máu ngoại tệ.

5. Chênh lệch chất lượng giữa các tuyến và vùng miền: Như đã đề cập, sự không đồng đều về chất lượng chuyên môn là một thách thức mang tính hệ thống. Các bệnh viện tuyến trên (trung ương, thành phố lớn) thường có đội ngũ chuyên gia giỏi và trang thiết bị tốt hơn nhiều so với tuyến tỉnh, huyện. Kết quả là người dân tin tưởng tuyến trên hơn, gây quá tải, còn tuyến dưới vắng bệnh nhân nên càng ít cơ hội cọ xát nâng cao tay nghề, tạo vòng luẩn quẩn. Khoảng cách vùng miền: miền núi, nông thôn chất lượng bệnh viện công kém xa đô thị, dẫn đến bất công trong tiếp cận dịch vụ y tế. Chỉ 50% tổng lượt khám và 12% lượt điều trị nội trú do tuyến cơ sở đảm nhiệm, còn lại đều dồn lên tuyến tỉnh, trung ương [thanhnien.vn] [thanhnien.vn]. Điều này có nghĩa người dân ở địa phương nhỏ nếu bệnh nặng vẫn phải về thành phố chữa, tốn kém và nguy hiểm do đi xa. Nỗ lực nâng cao năng lực tuyến dưới (chuyển giao kỹ thuật, đào tạo theo Đề án 1816 trước đây) có kết quả nhất định nhưng chưa thu hẹp được khoảng cách. Mức độ chênh lệch chất lượng giữa bệnh viện “hạng đặc biệt” và bệnh viện huyện vẫn rất lớn. Từ góc độ quản lý bệnh viện công, điều này tạo ra sức ép cạnh tranh lẫn nhau: bệnh viện tuyến trên thì quá tải, bệnh viện tuyến dưới thì lo thu hút bệnh nhân để tồn tại khi nhà nước có chủ trương khoán kinh phí. Một hệ quả khác là tâm lý bệnh nhân “tuyến dưới không tin tưởng” cũng ảnh hưởng đến tinh thần làm việc của nhân viên y tế tuyến đó. Đây là bài toán vượt khỏi tầm một bệnh viện, cần chính sách phân bổ nguồn lực và nhân lực hợp lý trên toàn quốc, cũng như cơ chế phối hợp tuyến (telemedicine, hội chẩn liên viện…) để người bệnh vùng xa được hưởng chất lượng chuyên môn cao mà không phải di chuyển. Tuy nhiên, ban giám đốc từng bệnh viện cũng phải nỗ lực nâng cao chất lượng nội tại để giữ bệnh nhân. Không ít bệnh viện tỉnh đã chủ động mời chuyên gia tuyến trên về làm việc luân phiên, đầu tư nâng cấp khoa trọng điểm – nhưng lại vướng cơ chế tài chính, nhân sự như đã phân tích. Vì vậy, tình trạng “mạnh được yếu thua” trong mạng lưới bệnh viện vẫn đang là một “nỗi đau” dai dẳng của ngành y, gây nhức nhối cho những người quản lý muốn vươn lên nhưng lực bất tòng tâm.

6. Khó khăn trong đạt chuẩn quốc tế về chất lượng bệnh viện: Trong bối cảnh hội nhập, chuẩn hóa chất lượng theo thông lệ quốc tế là thước đo quan trọng. Tuy nhiên, rất ít bệnh viện công Việt Nam đạt được chứng nhận quốc tế. Hiện tại, duy nhất BV Hùng Vương (TP.HCM) đạt chuẩn quốc tế ACHSI, trong khi nhiều bệnh viện tư đã đạt JCI hoặc ACHSI [tuoitre.vn]. Nguyên nhân một phần do các tiêu chí quốc tế đòi hỏi cao về cơ sở vật chất, nhân lực, quy trình – những điểm yếu cố hữu của bệnh viện công. Quá tải là rào cản lớn nhất: một bệnh viện đang khám gấp đôi công suất thì khó lòng đảm bảo tiêu chí thời gian chờ ngắn, môi trường yên tĩnh an toàn được [tuoitre.vn]. Hạn chế tài chính: để đạt chứng nhận quốc tế cần đầu tư cải tạo, mua sắm và thuê chuyên gia tư vấn rất tốn kém, bệnh viện công eo hẹp ngân sách khó đáp ứng [tuoitre.vn]. Nhân lực quản lý chất lượng thiếu: bệnh viện tư thường có phòng quản lý chất lượng hoạt động hiệu quả, còn bệnh viện công nhiều nơi còn xem nhẹ hoặc kiêm nhiệm, thiếu chuyên nghiệp. Văn hóa an toàn người bệnh chưa cao: quốc tế đề cao việc báo cáo sự cố tự nguyện, học từ sai sót, trong khi bệnh viện công ta nhân viên vẫn e ngại báo cáo vì sợ bị quy trách nhiệm. Ông Nguyễn Trọng Khoa cho biết các bệnh viện công thiếu nhân lực chất lượng cao cả về chuyên môn lẫn quản lý, hạ tầng thấp kém, nên khó đạt tiêu chuẩn quốc tế [tuoitre.vn]. Tuy nhiên, cũng có tín hiệu tích cực: Bộ Y tế những năm gần đây khuyến khích bệnh viện áp dụng các bộ tiêu chuẩn chất lượng nâng cao, thí điểm đánh giá theo chuẩn quốc tế để phấn đấu cải thiện [tuoitre.vn]. Một số bệnh viện công lớn (Chợ Rẫy, Bạch Mai, Việt Đức…) cũng đang trong lộ trình hướng đến JCI, dù chưa rõ thời gian về đích. Từ góc độ ban giám đốc, việc đạt chuẩn quốc tế không chỉ là danh hiệu mà còn giúp nâng tầm bệnh viện, thu hút bệnh nhân, vì thế họ rất muốn thực hiện. Nhưng những rào cản nội tại và cơ chế kể trên khiến mục tiêu này khá xa vời. Có bệnh viện đầu tư 10 năm vẫn “lỡ hẹn” như BV Đa khoa Bình Dương 1.500 giường đến nay vẫn chưa hoạt động [tuoitre.vn]. Dù vậy, áp lực phải vươn tới chuẩn mực cao hơn ngày càng tăng – khách hàng bây giờ đòi hỏi dịch vụ y tế chất lượng ngang tầm thế giới. Nếu bệnh viện công không cải tiến, họ sẽ mất bệnh nhân khá giả vào tay bệnh viện tư hoặc nước ngoài. Do đó, tiến tới các chuẩn quốc tế vừa là thách thức vừa là động lực buộc ban giám đốc bệnh viện công phải thay đổi tư duy quản lý và tìm cách tháo gỡ các “nút thắt” để nâng cao chất lượng toàn diện.

7. Mất niềm tin của một bộ phận người dân, dẫn đến xu hướng khám chữa bệnh bên ngoài hệ thống công: Chất lượng điều trị và phục vụ chưa như mong đợi đã khiến không ít người dân mất niềm tin vào bệnh viện công trong một số trường hợp. Điều này thể hiện qua hiện tượng người dân đổ sang bệnh viện tư, hoặc ra nước ngoài chữa bệnh dù chi phí cao hơn. Như đã nêu, mỗi năm 40.000 người Việt chi khoảng 2 tỷ USD để ra nước ngoài chữa bệnh [trade.gov] – con số này hàm ý người có tiền sẵn sàng ra ngoài hệ thống công lập để tìm dịch vụ tốt hơn. Ngay trong nước, các phòng khám tư nhân, bệnh viện quốc tế ở thành phố lớn thu hút một bộ phận khá giả, gây áp lực cạnh tranh cho công lập. Một khảo sát của World Bank (2016) từng chỉ ra tỷ lệ hài lòng của bệnh nhân khu vực công thấp hơn khu vực tư trong nhiều tiêu chí (thái độ, thời gian chờ, tiện nghi). Hậu quả dài hạn của việc mất niềm tin là bệnh viện công có nguy cơ mất bệnh nhân ở phân khúc dịch vụ chất lượng cao, giảm nguồn thu quan trọng (vốn đã ít ỏi). Ngoài ra, thiếu niềm tin cũng dẫn đến xung đột: nhiều vụ người nhà bức xúc đập phá, hành hung nhân viên khi sự cố xảy ra, một phần do họ đã không tin tưởng vào lời giải thích của bệnh viện. Từ phía quản lý, lấy lại niềm tin của người dân là thách thức lớn nhưng rất cần thiết. Những cải tiến nhỏ về dịch vụ (như Bệnh viện Ung bướu TP.HCM xây cơ sở 2 khang trang, Bệnh viện 103 cải thiện chăm sóc hậu sản) đã giúp thay đổi góc nhìn của bệnh nhân: họ bất ngờ khi “bệnh viện công nhưng không khác gì tư nhân, sạch sẽ, dịch vụ tốt” [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Điều đó chứng tỏ khi chất lượng nâng lên, niềm tin sẽ trở lại. Vấn đề là làm sao nhân rộng những điểm sáng này trong toàn hệ thống. Ban giám đốc bệnh viện công cần chiến lược truyền thông minh bạch, cải thiện không ngừng chất lượng, cầu thị lắng nghe phản hồi để dần chinh phục lại sự tin tưởng. Tuy nhiên, như phân tích ở phần truyền thông, nhiều bác sĩ, lãnh đạo còn ngại giao tiếp, ngại “nổi tiếng” nên chưa chủ động quảng bá hình ảnh tốt của mình [dantri.com.vn]. Đây cũng là điểm cần thay đổi: chủ động công khai minh bạch, chứng minh bằng chất lượng thực tế – có vậy mới dần thay đổi định kiến lâu nay với bệnh viện công. Tóm lại, chất lượng điều trị gắn liền với sự hài lòng và niềm tin của bệnh nhân. Giải quyết tốt các “nỗi đau” về chất lượng chính là chìa khóa để bệnh viện công khẳng định vị thế, giữ vững vai trò nòng cốt trong hệ thống y tế, không để công chúng quay lưng.

Thách thức về Quan hệ Đối ngoại và Truyền thông Nội bộ (External Relations & Internal Communications)

1. Quan hệ với bệnh nhân và cộng đồng: Xây dựng hình ảnh và niềm tin – Ban giám đốc bệnh viện công phải đối mặt với bài toán giữ gìn uy tín, hình ảnh bệnh viện trước công chúng, trong khi thường xuyên có những thông tin bất lợi do một số trải nghiệm tiêu cực của bệnh nhân. Dư luận xã hội dễ bị tác động mạnh bởi các vụ việc cá biệt: ví dụ một clip lan truyền cảnh bệnh nhân nằm lăn ra sàn chờ khám, hay người nhà bức xúc la lối về thái độ y bác sĩ… có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh bệnh viện công nói chung. Thực tế hiện nay, vẫn còn tồn tại tình trạng thái độ phục vụ tắc trách của một vài nhân viên khiến bệnh nhân phàn nàn [tuoitre.vn]. Chẳng hạn, có người bệnh phản ánh khi đến quầy hướng dẫn, nhân viên không hướng dẫn rõ ràng, nói năng khó nghe – sau đó bệnh nhân này đã gọi đường dây nóng khiếu nại, nhân viên mới xin lỗi [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Những sự việc như vậy nếu không được xử lý khéo léo có thể bùng lên thành khủng hoảng truyền thông, làm cộng đồng mất niềm tin vào bệnh viện công. Ngoài ra, hiện tượng bạo hành y tế (người nhà bệnh nhân hành hung, đe dọa nhân viên y tế do hiểu lầm hoặc bức xúc) cũng ảnh hưởng xấu đến quan hệ bệnh viện – cộng đồng [baochinhphu.vn]. Nó cho thấy khoảng cách và thiếu thấu hiểu giữa hai bên. Ban giám đốc phải nỗ lực xây dựng kênh đối thoại với người dân: lắng nghe phản ánh qua đường dây nóng, mạng xã hội; công khai đường dây nóng tại bệnh viện để tiếp nhận ý kiến người dân như Bộ Y tế yêu cầu. Đồng thời đẩy mạnh cải tiến dịch vụ, đào tạo kỹ năng giao tiếp cho nhân viên để từng bước cải thiện sự hài lòng của bệnh nhân. Một ví dụ tích cực: Chương trình đào tạo giao tiếp, ứng xử cho 100% nhân viên mỗi năm tại BV Ung bướu TP.HCM đã giúp thái độ phục vụ cải thiện đáng kể [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]. Quan hệ tốt với người bệnh không chỉ tránh được khủng hoảng mà còn tăng hiệu quả điều trị (bệnh nhân tin tưởng sẽ hợp tác điều trị hơn). Vì vậy, xây dựng văn hóa bệnh viện thân thiện, hướng tới người bệnh là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược đối ngoại của các bệnh viện công hiện nay.

2. Quan hệ với báo chí và quản lý khủng hoảng truyền thông: Thời đại mạng xã hội bùng nổ, một sự cố y khoa hay thông tin tiêu cực có thể lan truyền rất nhanh, đòi hỏi bệnh viện công phải chủ động trong công tác truyền thông báo chí. Tuy nhiên, thực tế nhiều lãnh đạo cơ sở y tế chưa quen làm việc với truyền thông, dẫn đến phản ứng chậm hoặc phát ngôn sơ suất khi sự cố xảy ra [vietnamnet.vn] [vietnamnet.vn]. Ông Nguyễn Văn Vĩnh Châu (PGĐ Sở Y tế TP.HCM) nhận định đơn vị y tế phải giải quyết thông tin ngay từ đầu để tránh khủng hoảng, nếu né tránh báo chí thì tin đồn bên ngoài sẽ lấp đầy khoảng trống thông tin [vietnamnet.vn] [vietnamnet.vn]. Đáng tiếc, một số lãnh đạo bệnh viện còn tâm lý e dè, né tránh truyền thông, khiến khi phóng viên hỏi tới thì trả lời không trúng vấn đề hoặc gây hiểu nhầm [vietnamnet.vn] [vietnamnet.vn]. Điều này chỉ làm khủng hoảng thêm tồi tệ. Ví dụ, vụ tai biến chạy thận ở Hòa Bình (2017) từng gây khủng hoảng lớn, một phần do phát ngôn ban đầu của bệnh viện chưa đầy đủ, sau đó báo chí phát hiện thêm chi tiết gây mất uy tín nặng. Nhận thức rõ điều đó, ngành y tế đang tích cực huấn luyện kỹ năng truyền thông cho cán bộ: TP.HCM đã mở lớp kỹ năng truyền thông, phát ngôn cho hơn 50 lãnh đạo bệnh viện [vietnamnet.vn] [vietnamnet.vn]. Học viên được chia sẻ cách xử lý tình huống, kinh nghiệm thực tế nhằm chuyển từ bị động sang chủ động trong cung cấp thông tin [vietnamnet.vn]. Nguyên tắc truyền thông khủng hoảng được nhấn mạnh: “phòng bệnh hơn chữa bệnh” – cần chủ động công bố thông tin chính thống sớm và giải quyết sự cố nhân văn, đặt sức khỏe con người lên hàng đầu [vietnamnet.vn] [vietnamnet.vn]. Ban giám đốc bệnh viện công ngày nay phải coi truyền thông như một phần công việc quản trị: phải có người phát ngôn chuyên nghiệp, có quy trình phản hồi báo chí rõ ràng. Bên cạnh xử lý khủng hoảng, còn cần chủ động truyền thông tích cực: đưa tin về thành tựu chuyên môn, gương người tốt việc tốt của bệnh viện. Điều này vừa nâng cao hình ảnh, vừa giúp cân bằng dư luận khi có thông tin tiêu cực xen vào. Thách thức là nhiều bác sĩ giỏi chuyên môn nhưng “mù mờ” truyền thông, thậm chí sợ lên báo sợ “ném đá” [dantri.com.vn]. Do đó, bệnh viện có thể hợp tác với các cơ quan báo chí để đào tạo hoặc hỗ trợ đưa tin. Tóm lại, quan hệ tốt với báo chí – truyền thông đòi hỏi sự chủ động, minh bạch và kỹ năng từ phía bệnh viện. Đây là kỹ năng mới mà ban giám đốc bệnh viện công đang phải học hỏi nhanh chóng để đáp ứng yêu cầu thời đại, bởi chỉ một sai lầm truyền thông có thể xóa nhòa mọi nỗ lực chuyên môn.

3. Truyền thông y tế chủ động trên mạng xã hội và xây dựng KOLs (đối ngoại): Mạng xã hội vừa là thách thức vừa là cơ hội cho bệnh viện công. Thách thức ở chỗ, như đã nói, thông tin sai lệch lan nhanh, song ngược lại bệnh viện cũng có thể tận dụng mạng xã hội để chủ động truyền tải thông điệp tích cực. Ông Nguyễn Ngọc Hồi (PGĐ Sở TT&TT TP.HCM) gợi ý ngành y còn rất nhiều nội dung tiềm năng để chia sẻ với người dân, như giải thích cường độ làm việc vất vả của bác sĩ, hướng dẫn chăm sóc sức khỏe... [dantri.com.vn] [dantri.com.vn]. Ngày nay, việc tự truyền thông dễ dàng hơn nhờ nền tảng mạng xã hội, nhưng đáng tiếc nhiều bác sĩ ngại xuất hiện vì sợ “ném đá” [dantri.com.vn]. Trong khi đó, các luồng tin giả, tin thất thiệt về y tế lại xuất hiện tràn lan (ví dụ các bài thuốc nam giật gân, anti-vaccine, chữa bệnh “thần kỳ”…), gây hậu quả xấu và thậm chí một số người tung tin sai bị xử phạt [dantri.com.vn]. Do vậy, bệnh viện công cần tăng cường truyền thông chủ động: xây dựng các kênh Facebook, YouTube, TikTok chính thức để cung cấp thông tin y khoa chuẩn xác và kịp thời. Nhiều người bệnh cho biết họ không tiếp thu được thông tin từ cơ sở y tế nếu không được truyền tải qua phương tiện ưa thích của họ (mạng xã hội) [dantri.com.vn] [dantri.com.vn]. 55% bệnh nhân được khảo sát cho biết chỉ khi thông tin y tế được truyền qua mạng xã hội yêu thích, họ mới nắm bắt, còn nếu chỉ thông báo truyền thống thì họ bỏ qua [dantri.com.vn]. Do đó, nếu bệnh viện công muốn giáo dục sức khỏe cộng đồng hiệu quả, phải chuyển từ độc thoại sang đối thoại trên không gian số [lyluanchinhtrivatruyenthong.vn]. Một khía cạnh nữa là xây dựng mạng lưới KOLs (Key Opinion Leaders) về y tế: những bác sĩ có uy tín sẵn sàng chia sẻ kiến thức, phản bác tin sai trên mạng. Nghiên cứu cho thấy 66% cơ sở y tế vẫn dùng phương tiện truyền thống để giao tiếp, chỉ 34% tận dụng mạng xã hội [dantri.com.vn] [dantri.com.vn] – nghĩa là còn nhiều dư địa cải thiện. Ban giám đốc bệnh viện công nên khuyến khích và tạo điều kiện cho các bác sĩ, chuyên gia của mình tham gia truyền thông (viết bài, làm video tư vấn sức khỏe…). Đồng thời phải đào tạo họ về quy tắc ứng xử trên mạng để tránh phát ngôn nhạy cảm vi phạm pháp luật [dantri.com.vn]. Ví dụ: Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM đã tổ chức chuỗi hội thảo huấn luyện kỹ năng truyền thông cho chuyên gia y tế, nhấn mạnh việc ứng phó khủng hoảng và xây dựng hình ảnh cá nhân [vietnamnet.vn] [vietnamnet.vn]. Tất cả nhằm mục tiêu cuối cùng: thay đổi cách công chúng nhìn nhận hệ thống y tế công, tăng cường hiểu biết đúng đắn, qua đó hỗ trợ hoạt động chuyên môn. Dù đây là lĩnh vực mới mẻ, nhiều bệnh viện công đã bắt đầu bắt nhịp, nhưng chắc chắn còn cả chặng đường để làm chủ truyền thông số. Thách thức đặt ra cho ban giám đốc là phải đầu tư nguồn lực (người và kinh phí) cho hoạt động truyền thông, trong khi ngân sách eo hẹp và còn thiên kiến coi truyền thông là thứ yếu. Kết quả khảo sát nội bộ ở BV Nhi Trung ương cho thấy 88% nhân viên đánh giá thiếu ngân sách và công nghệ là khó khăn lớn nhất trong truyền thông thương hiệu bệnh viện [lyluanchinhtrivatruyenthong.vn]. Nguyên nhân do rào cản pháp lý và cơ chế đấu thầu đầu tư công, khiến việc chi cho công tác truyền thông còn bị xem là “xa xỉ” [lyluanchinhtrivatruyenthong.vn]. Ban giám đốc cần thay đổi suy nghĩ này: truyền thông hiệu quả chính là đầu tư cho sự phát triển bền vững của bệnh viện, nhất là trong thời đại số.

4. Hợp tác đối ngoại và quan hệ quốc tế: Tận dụng nguồn lực bên ngoài – Một khía cạnh khác của quan hệ đối ngoại là hợp tác với các tổ chức, đối tác ngoài hệ thống để hỗ trợ bệnh viện. Các bệnh viện công lớn thường có quan hệ với tổ chức quốc tế (WHO, World Bank), NGO y tế, hợp tác đào tạo với bệnh viện nước ngoài, hoặc hợp tác công tư trong nước. Tuy nhiên, quản lý những mối quan hệ này không đơn giản. Thủ tục hành chính để nhận tài trợ nước ngoài rất phức tạp (phải qua UBND hoặc Bộ chủ quản phê duyệt dự án viện trợ, hải quan thông quan trang thiết bị tặng…); vì thế không ít bệnh viện bỏ lỡ cơ hội nhận trang thiết bị hiện đại do quy định rườm rà. Hợp tác công tư (PPP), như đã phân tích ở phần pháp lý, cũng là lĩnh vực đầy tiềm năng nhưng khó triển khai. Đối tác tư nhân có thể giúp bệnh viện công về vốn và quản trị, song thiếu khung pháp lý tin cậy khiến cả hai bên e dè. Một ví dụ: Dự án BVĐK Đồng Nai hợp tác theo hình thức PPP ban đầu rất được khen, nhưng sau vài năm thanh tra lại chỉ ra một số sai phạm hợp đồng, gây lùm xùm – điều này làm các nơi khác ngại dấn thân PPP. Ban giám đốc bệnh viện công đứng giữa: muốn tận dụng nguồn lực bên ngoài để phát triển, nhưng phải đảm bảo hài hòa lợi ích và tuân thủ quy định, nếu không dễ gặp rắc rối. Quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước (Bộ, Sở Y tế) cũng thuộc đối ngoại: nhiều khi bệnh viện làm đúng chuyên môn nhưng bị hiểu lầm do thiếu báo cáo kịp thời lên trên, dẫn đến bị phê bình. Vì thế, lãnh đạo bệnh viện cần giữ kênh liên lạc thông suốt với cơ quan chủ quản, báo cáo trung thực tình hình và mạnh dạn kiến nghị tháo gỡ khó khăn. Như trong vụ “treo” tiền BHYT ở TP.HCM, Sở Y tế đã nhiều lần gửi văn bản kiến nghị Bộ Y tế, BHXH Việt Nam sớm thanh toán cho bệnh viện [tuoitre.vn] [tuoitre.vn] – đó là cách tranh thủ sự ủng hộ từ cấp trên để giải quyết vấn đề. Về quan hệ quốc tế, bệnh viện công Việt Nam có nhiều cơ hội: trao đổi chuyên môn, nhận chuyển giao kỹ thuật, tham gia các dự án nghiên cứu đa quốc gia. Thách thức là rào cản ngôn ngữ, kinh phí và cả tâm lý e ngại hội nhập ở một số nơi. Ban giám đốc phải chủ động tìm kiếm, kết nối với đối tác quốc tế, đồng thời chuẩn bị nhân lực (ngoại ngữ, kỹ năng) để hợp tác hiệu quả. Một lợi ích của quan hệ quốc tế tốt là nâng tầm thương hiệu bệnh viện, giúp thu hút bệnh nhân nước ngoài hoặc Việt kiều về chữa trị. Hiện nay, ngành y tế có chủ trương phát triển du lịch y tế, bệnh viện công cũng nên tham gia. Nhưng để làm được, họ phải cải thiện dịch vụ và quảng bá – lại quay về bài toán chất lượng và truyền thông. Tựu trung, quan hệ đối ngoại tốt giúp bệnh viện công mở rộng nguồn lực và học hỏi kinh nghiệm, nhưng quản lý các mối quan hệ đó đòi hỏi sự chuyên nghiệp, minh bạch và linh hoạt mà nhiều bệnh viện công còn phải nỗ lực vươn tới.

5. Truyền thông nội bộ và văn hóa tổ chức (Internal Communications): Một “nỗi đau thầm lặng” nhưng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả vận hành bệnh viện công là truyền thông nội bộ chưa tốt. Trong nhiều đơn vị, thông tin từ ban giám đốc xuống nhân viên và ngược lại còn tắc nghẽn. Kênh giao tiếp chính thức hạn chế: ví dụ, quyết định, thông báo chỉ dán trên bảng hoặc gửi công văn, nhân viên tuyến dưới bận rộn có khi không đọc kịp. Ý kiến phản hồi của nhân viên ít được thu thập một cách hệ thống – nhiều nhân viên e ngại góp ý thẳng vì sợ va chạm cấp trên. Trong mùa dịch COVID-19, nhược điểm này bộc lộ: nhiều bệnh viện phải liên tục thay đổi quy định phòng dịch, nhưng nội bộ lúng túng vì nhân viên nhận thông tin không đồng bộ, dẫn đến thực hiện không thống nhất [qpsolutions.vn]. Sự cố nội bộ dễ xảy ra nếu truyền thông kém: có bệnh viện xảy ra tiêu cực (như điều dưỡng thu tiền “lót tay”), thay vì nhân viên báo cáo qua kênh nội bộ thì họ im lặng, để đến khi báo chí phanh phui mới vỡ lở – gây khủng hoảng. Nếu truyền thông nội bộ hiệu quả, lãnh đạo đã có thể biết sớm vấn đề và xử lý trước. Văn hóa an toàn, không đổ lỗi cũng cần được truyền thông mạnh mẽ nội bộ để nhân viên dám báo cáo sai sót, từ đó bệnh viện học hỏi cải tiến. Thêm nữa, thiếu gắn kết nội bộ có thể dẫn đến tình trạng cục bộ khoa phòng, thiếu hợp tác liên khoa – ảnh hưởng chất lượng chăm sóc liên tục cho bệnh nhân. Ví dụ, khoa khám bệnh và khoa điều trị nội trú không trao đổi tốt sẽ khiến bệnh nhân nhập viện bị lỡ thông tin xét nghiệm đã làm, phải làm lại xét nghiệm, vừa tốn kém vừa phiền hà. Một ví dụ tích cực: BV Nhi Trung ương đã xây dựng mô hình 3 cấp truyền thông nội bộ rõ ràng – cấp chiến lược (ban giám đốc định hướng, xử lý khủng hoảng), cấp thực thi (phòng TTĐT quản lý các kênh truyền thông số), cấp phối hợp (phòng Công tác xã hội hỗ trợ thu thập phản hồi, các khoa phòng duyệt nội dung y khoa) [lyluanchinhtrivatruyenthong.vn] [lyluanchinhtrivatruyenthong.vn]. Mô hình này giúp phân rõ vai trò, đảm bảo thông tin thông suốt từ trên xuống dưới và ngược lại. Các bệnh viện công khác có thể học hỏi, tùy quy mô mà áp dụng. Tuy nhiên, khó khăn chunghạn chế về nguồn lực cho truyền thông nội bộ: nhiều nơi không có cán bộ chuyên trách, hoặc kiêm nhiệm nên không làm hết chức năng. Ngân sách dành cho hoạt động gắn kết nhân viên (như team-building, khen thưởng nội bộ, bản tin nội bộ) rất ít, thường bị xem nhẹ so với hoạt động chuyên môn. Ban giám đốc nếu chỉ tập trung vào bệnh nhân mà quên đi nhân viên thì về lâu dài sẽ mất đi sự đồng lòng của tập thể – mà sức mạnh nội bộ mới chính là nền tảng để vượt qua khó khăn bên ngoài. Một khảo sát nội bộ (BV Nhi TW) cũng cho thấy điểm đánh giá mức độ tương xứng của nguồn lực truyền thông nội bộ chỉ 3,09/5, tức là nhân viên không hài lòng với hỗ trợ hiện có [lyluanchinhtrivatruyenthong.vn] [lyluanchinhtrivatruyenthong.vn]. Vậy nên, cải thiện truyền thông nội bộ cũng cần được xem là ưu tiên của ban lãnh đạo. Các giải pháp có thể gồm: thiết lập bản tin điện tử nội bộ, nhóm chat chính thức; định kỳ gặp gỡ trao đổi giữa BGĐ với nhân viên các khoa; khảo sát sự hài lòng của nhân viên 6 tháng/lần ẩn danh để nắm bắt tâm tư; phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn trong truyền tải ý kiến công chức, viên chức. Nếu làm tốt, tinh thần nhân viên nâng cao sẽ dẫn đến chất lượng phục vụ cải thiện, và ngược lại, nhân viên có thể trở thành đại sứ truyền thông tích cực cho bệnh viện trong cộng đồng. Ngành y có câu “lương y như từ mẫu”, nhưng để nhân viên y tế lan tỏa tinh thần đó, chính nội bộ bệnh viện cũng cần một môi trường giao tiếp cởi mở, tôn trọng và đoàn kết. Tóm lại, truyền thông nội bộ tuy âm thầm nhưng là bệ đỡ cho mọi hoạt động đối ngoại và chuyên môn – một khi nội bộ “thông suốt tâm đầu”, bệnh viện sẽ vững mạnh vượt qua khó khăn.


Qua phân tích trên, có thể thấy ban giám đốc bệnh viện công tại Việt Nam đang cùng lúc gánh vác nhiều “nỗi đau” trải rộng trên các lĩnh vực tài chính, nhân sự, quy trình, CNTT, chính sách, chất lượng và quan hệ. Những thách thức này đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo thành bài toán quản trị cực kỳ nan giải. Trong đó, tài chính không bền vững và khủng hoảng nhân lực là hai vấn đề nổi cộm hàng đầu, kéo theo nhiều hệ lụy về chất lượng và dịch vụ. Bên cạnh nỗ lực tự thân của từng bệnh viện, vai trò của Nhà nước trong tháo gỡ nút thắt cơ chế, tăng đầu tư là rất quan trọng [thanhnien.vn [thanhnien.vn. Đã có những tín hiệu tích cực như việc ban hành các chính sách khẩn cấp gỡ khó về đấu thầu, hay đào tạo kỹ năng mềm cho lãnh đạo bệnh viện [tuoitre.vn [tuoitre.vn. Tuy nhiên, để giải quyết tận gốc các “nỗi đau” này cần những giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ và lâu dài hơn – từ cải cách chính sách y tế (giá viện phí, BHYT, tự chủ...) đến đầu tư phát triển mạng lướiđổi mới quản trị bệnh viện. Bản thân mỗi ban giám đốc cũng cần chủ động thích nghi, học hỏi các phương pháp quản lý hiện đại, tăng cường hợp tác và lắng nghe từ cả nhân viên lẫn người bệnh. Chỉ khi đó, bệnh viện công mới có thể vượt qua giai đoạn khó khăn hiện tại, tiếp tục sứ mệnh chăm sóc sức khỏe toàn dân một cách hiệu quả và bền vững.

Tài liệu tham khảo: Các số liệu và nhận định trong báo cáo được tổng hợp từ nhiều nguồn đáng tin cậy: Báo cáo và phát biểu của lãnh đạo Bộ Y tế, Sở Y tế (Nguyễn Trọng Khoa, Tăng Chí Thượng) [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]; thống kê của Công đoàn Y tế Việt Nam và Sở Y tế TP.HCM về tình hình nhân lực y tế nghỉ việc [baochinhphu.vn] [vnexpress.net]; phản ánh thực tiễn từ các bệnh viện lớn như Chợ Rẫy [tuoitre.vn] [tuoitre.vn], Bạch Mai [thanhnien.vn], Ung Bướu TP.HCM [tuoitre.vn], 103 (Hà Nội) [tuoitre.vn], Nhi TW [lyluanchinhtrivatruyenthong.vn]...; cùng các phân tích, kiến nghị từ chuyên gia kinh tế y tế (TS Nguyễn Đình Cung) [thanhnien.vn], Viện Chiến lược Chính sách Y tế [thanhnien.vn], tổ chức quốc tế (World Bank, WHO) và báo cáo ngành. Những dẫn chứng tiêu biểu đã được trích dẫn minh bạch trong nội dung (theo định dạng 【mã nguồn†dòng】). Các số liệu định lượng nổi bật gồm: 9397 nhân viên y tế thôi việc trong 18 tháng (2021-6/2022) trên cả nước [baochinhphu.vn]; hơn 1500 nhân viên y tế TP.HCM nghỉ việc năm 2022 (cao gấp ~3 lần trước dịch) [vnexpress.net]; BHYT TP.HCM nợ bệnh viện ~2.500 tỷ đồng (2023-2024) [tuoitre.vn]; chỉ 80% gói thầu tại Chợ Rẫy năm 2023 có nhà thầu, 20% thất bại [tuoitre.vn] [tuoitre.vn]; giá phẫu thuật bệnh viện tư cao gấp 11 lần bệnh viện công [tuoitre.vn]; mỗi năm 40.000 người Việt ra nước ngoài chữa bệnh, chi ~2 tỷ USD [trade.gov]... Những con số này cho thấy tính cấp bách của vấn đề và giúp ưu tiên những lĩnh vực cần tập trung giải quyết trước. Hy vọng báo cáo đã cung cấp cái nhìn toàn diện, sâu sắc về thực trạng các “nỗi đau” của ban giám đốc bệnh viện công Việt Nam, qua đó gợi mở các hướng cải thiện nhằm nâng cao năng lực hệ thống y tế công lập trong thời gian tới.